Trang

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Lịch sử xã Hồng Sơn, huyện Đô Lương đến năm 2013


Cùng bạn đọc

          Bạn đọc thân mến !

          Bài viết này đã được đăng trên Blog Yahoo cách đây 4 năm, sau khi Yahoo đóng cửa Blog thì được chuyển sang blogspot google. Từ đó đến nay, bài viết đã được bổ sung, chỉnh sửa rất nhiều lần.
          Chắc việc chỉnh sửa nhiều lần đã làm cho bạn đọc cảm thấy khó chịu. Tôi thành thật xin lỗi các bạn; viết lịch sử cho xong 1 lần rất khó, vì tư liệu không có đủ mà phải cóp nhặt rải rác. Vừa viết chúng tôi vừa thu thập thêm tư liệu, sự kiện; tìm hiểu, chỉnh sửa làm sao cho chính xác nhất, phong phú nhất.
          Đến nay thì bài viết này xem như đã hoàn chỉnh; phong phú về tư liệu, sự kiện (từ đầu Thế kỷ XVII đến nay - hơn 400 năm). Tất cả sự thay đổi về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội qua các thời kỳ đều được thể hiện trong bài viết. Bài viết này đã được sử dụng trong cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hồng Sơn”.
          Ngày17/7/2014, Đảng ủy xã Hồng Sơn đã long trọng tổ chức ra mắt và giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hồng Sơn” để cán bộ, đảng viên và nhân dân có điều kiện tìm hiểu về lịch sử quê hương.



          Vui mừng kính báo cùng bạn đọc.

                                     Ngày 20 tháng 7 năm 2014

Chương mở đầu

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI XÃ HỒNG SƠN

I. SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỒNG SƠN

           Mời bạn đọc xem hình ảnh quê hương Hồng Sơn theo đường lin sau đây:


          Xã Hồng Sơn ngày nay là một phần của xã Tiên Nông xưa. Địa giới xã Tiên Nông xưa: Bắc giáp xã Phượng Kỳ (nay thuộc Thị trấn huyện Tân Kỳ); Nam giáp xã Đô Lương (nay thuộc xã Tràng Sơn và xã Đông Sơn - Khu vực: Nhà Vi, Trung Đồng, Cá Khô, Lưỡi Mèo của xã Đông Sơn nay cũng là đất xã Tiên Nông xưa); Đông giáp các thôn: Năn Mới, Yên Lương, Mỹ Hòa (nay thuộc xã Giang Sơn Đông), xã Yên Lăng (nay thuộc xã Bài Sơn, xã Hòa Sơn, xã Thịnh Sơn); Tây giáp xã Bạch Đường (nay thuộc xã Bồi Sơn, xã Lam Sơn, xã Ngọc Sơn) và thôn Tào Giang (thuộc tổng Lãng Điền, nay là Trung Hậu thuộc xã Giang Sơn Tây).

         Thuở các vua Hùng dựng nước Văn Lang xã Tiên Nông cũng đã có người Việt cổ sinh sống ở Kẻ Mủi (nay là xóm 5 xã Hồng Sơn), Kẻ Năn (nay thuộc xã Giang Sơn). Xã Tiên Nông thời nhà Trần thuộc huyện Thổ Thành; thời Lê Trung hưng thuộc huyện Đông Thành phủ Diễn Châu.
Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), huyện Đông Thành tách ra thành 2 huyện: Đông Thành và Yên Thành theo hướng Đông Tây; huyện Yên Thành ở về phía Bắc; huyện Đông Thành ở phía Nam; xã Tiên Nông thuộc tổng Vân Tụ huyện Đông Thành.
Năm Thành Thái thứ 10 (1898), huyện Đông Thành lập thêm tổng mới Vân Hội. Xã Tiên Nông chia thành hai xã là Tiên Nông và Xuân Lạc. Xã Tiên Nông vẫn thuộc tổng Vân Tụ và "nhất xã, nhất thôn"[1]; xã Xuân Lạc thuộc tổng Vân Hội có thôn Đồng Xuân và giáp Đồng Lạc. Chia lại 2 huyện Đông Thành và Yên Thành theo hướng Bắc Nam; huyện Yên Thành ở về phía Tây, huyện Đông Thành ở về hướng Đông; xã Tiên Nông và Xuân Lạc đều thuộc huyện Yên Thành.


[1] . Một xã chỉ có một thôn, thường là thôn lớn; xã chỉ là hình thức mang tính xã hội, thôn mới là đơn vị hành chính pháp quyền có bộ máy quản lý gồm Lý trưởng và Hương hội ... Khoảng năm 1937, cụ Hoàng Văn Nghiên người thôn Đông Trung vào khai hoang ruộng đất tại vùng giáp với xã Tiên Đường (Thịnh Thành); dần dà có thêm người vào làm thuê, lập gia đình rồi hình thành Trại Mới (về sau gọi là Đồng Long).

Dưới đây là bản đồ Phủ Diễn Châu và huyện Lương Sơn thời Đồng Khánh.
Vị trí các xã, thôn lân cận với xã Tiên Nông theo số thứ tự đánh dấu trên bản đồ Phủ Diễn Châu:

40. Xã Tiên Nông (ngay dưới tiêu đề “Toàn hạt phủ Diễn Châu), 43. Xã Tiên Kỳ ngoại, 44. Xã Hòa Hợp, 39. Tổng Vân Tụ, 24. Xã Yên Lăng, 38. Xã Tiên Đường, 41. Xã Đông Yên. 


Vị trí các xã, thôn lân cận với xã Tiên Nông theo số thứ tự đánh dấu trên bản đồ huyện Lương Sơn:
1. Phủ lỵ Anh Sơn, 2. Núi Kim Nhan, 3. Đền Quả Sơn, 4. Tổng Đô Lương, 5. Thôn Thanh Đường (Thanh Lâm), 6. Thôn Phúc Hậu, 7. Thôn Trạc Thanh, 8. Thôn Nhân Trung, 9. Thôn Tập Phúc, 10. Thôn Phúc Yên, 11. Thôn Nhân Bồi, 12. Thôn Trường Thịnh, 13. Thôn Cẩm Ngọc, 22. Thôn Đông Trung


Năm 1919, bỏ cấp phủ, các huyện trở thành đơn vị trực thuộc tỉnh Nghệ An. Cắt các xã: Tiên Nông, Yên Lăng, Vân Đội (1/2) thuộc huyện Yên Thành để lập tổng mới Yên Lăng và chuyển nhập vào huyện Lương Sơn. Năm 1924, huyện Lương Sơn lại đổi tên thành phủ Anh Sơn ; cắt thôn Tiên Nông từ tổng Yên Lăng về tổng Đô Lương.  
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, phủ Anh Sơn đổi thành huyện Anh Sơn. Cắt xã Xuân Lạc... thuộc huyện Yên Thành chuyển về huyện Anh Sơn; cắt giáp Đồng Lạc thuộc xã Xuân Lạc nhập về xã Tiên Nông. Đến tháng 12 năm 1945, chính quyền cách mạng bỏ cấp tổng, thành lập các xã lớn. Các thôn: Tiên Nông, Đồng Lạc, Đồng Long, Đồng Xuân, Năn Mới, Yên Lương, Mỹ Hòa, Trung Hậu, Tràng Ná, Phượng Kỳ nhập thành một xã với tên gọi xã Yên Sơn; tháng 3 năm 1946, UBHCKC tỉnh Nghệ An ký Quyết định thành lập đổi tên là xã Thanh Sơn. Năm 1953, chia tách các xã lớn đã thành lập sau năm 1945. Xã Thanh Sơn chia thành thành 3 xã là Hồng Sơn, Giang Sơn và Kỳ Sơn.
Năm 1963, huyện Anh Sơn chia thành 2 huyện là Đô Lương và Anh Sơn, xã Hồng Sơn thuộc huyện Đô Lương. Năm 1964, cắt xóm Cao Sơn của xã Hồng Sơn nhập vào xã Đông Sơn. Đến năm 1965, một bộ phận dân cư của xã Yên Sơn huyện Đô Lương di cư lên xã Hồng Sơn làm ăn sinh sống và thành lập xóm mới gọi là Tam Sơn. Năm 1967, xóm Tam Sơn được nhập vào xã Giang Sơn. Đến nay, xã Hồng Sơn có 9 xóm theo thứ tự từ 1 đến 9.

II. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Xã Hồng Sơn ngày nay là một trong 33 đơn vị hành chính của huyện Đô Lương, cách thị trấn Đô Lương 8 km về hướng Bắc, cách thành phố Vinh 70 km về hướng Tây - Bắc. Phía Đông giáp xã Bài Sơn, xã Đông Sơn và xã Thịnh Thành; Phía Tây giáp xã Bồi Sơn và xã Lam Sơn; Phía Nam giáp xã Tràng Sơn; Phía Bắc giáp xã Giang Sơn. Trên địa bàn xã có con đường huyền thoại 15A và con đường chiến lược 15B chạy qua với chiều dài 2 tuyến đường này đi qua trên địa bàn xã gần 7 km.



Theo sách "Nghệ An ký", khi mô tả về mạch sông núi vùng xã Tiên Nông và các địa danh lân cận, Bùi Dương Lịch viết: "Mạch từ phủ Quỳ Châu lại thì bên trái là Sông Quyền ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa chảy ra Cửa Triều; bên phải là Sông Lam chảy ra Cửa Hội… Từ dải lớn[2] nổi lên núi Chẩm Tụy[3], chia hai chi lớn: một chi chạy lên phía tây, nhiều ngọn trùng trùng điệp điệp đến tận Sông Hiếu; một chi chạy xuống phía đông cũng trùng điệp đến tận Cửa Hiền. Chi phía tây nổi lên núi Bào Bồn[4], dọc theo phía bắc là các xã Tiên Nông, Tam Sơn và Sơn Dân huyện Đông Thành; dọc theo phía nam là những núi ở xã Bạch Đường… Lại từ núi Bào Bồn chia thành một nhánh nhỏ chạy xuống phía Nam thành Mô Sơn[5], xã Đô Lương…".

[2] . Dải lớn nằm trên mạch núi từ Phủ Quỳ chạy xuống và tỏa ra 2 ngã bắc Quỳnh Lưu và nam Diễn Châu.
[3] .  Núi Chẩm Tụy nay là dãy núi từ lèn MặtTrắng xã Bài Sơn lên đến xóm 7 (Long Sơn) xã Hồng Sơn. 
[4] .  Núi Bào Bồn nay gọi là lèn Thung Vưng.
[5] . Mô Sơn nay gọi là lèn Tràng Thịnh.

Xã Tiên Nông nằm giữa bốn dãy núi: Phía Bắc sát với dải lớn (nay gọi là Truông Dong), phía đông là núi Chẩm Tụy, phía tây là núi Bào Bồn và phía nam là núi Mô tạo thành một vùng thung lũng rộng lớn; từ 4 dãy núi đổ xuống thung lũng có nhiều núi nhỏ lô nhô. Giữa thung lũng có hai mạch nước: Một mạch từ phía bắc đổ xuống phía nam gọi là khe Trường Pheo, mạch này bắt nguồn từ xã Tiên Đường; một mạch từ phía đông đổ sang phía tây gọi là khe Nước Bạc, mạch này bắt nguồn từ xã Yên Lăng; hai mạch này gặp nhau ở hủng khe Giao thôn Tiên Nông rồi chảy ngoằn ngoèo qua các đồi, vệ, qua khe Bèo, khe Vệ Dài, khe Quai rồi đổ ra Sông Lam. Ngoài ra còn có một mạch nhỏ tách từ mạch Trường Pheo trên Kho Vàng chảy sang phía Tây, qua Vũng Dài, Vũng Đầy, xuống Trộ Tép, đến Chọ Rốc thì gặp khe Trường từ bên Nhân Bồi sang hợp nhau rồi đổ vào mạch lớn tại Khe Bèo. Vì thế thôn Tiên Nông được ví như một túi nước của cả vùng thung lũng
Từ trên bốn dãy núi xuống thung lũng, phần lớn là rừng cây rậm rạp có nhiều lâm thổ sản quý như: lim, sến, táu, lát hoa…; nhiều cây lấy quả và củ như: củ mài, củ nâu; quả dẻ, quả du da, sơn trà, quả gẳm…; nhiều loại cây làm dược liệu: hà thủ ô, cây rễ cọi, ngũ gia bì, mua cua, thiên niên kiện, chè vằng…; nhiều loại thú quý hiếm như: voi[6], hổ, gấu, sói, hươu, nai, sơn dương, lợn rừng, khỉ đà, tắc kè, cáo, chồn, hon, nhím… các loại chim muông như: bìm bịp, gà ri, dụ dị, đa đa…  

[6] . Tháng 4/2005 tại mương mới cầu Khe Đình anh Phạm Văn Đông, xóm 4, Hồng Sơn phát hiện bộ xương voi (một số xương đã bị hóa thạch). Hiện nay bộ xương voi đã được đưa về bảo tàng Nghệ An lưu giữ.

Dãy Chẩm Tụy và dãy Bào Bồn, phần lớn là núi đá vôi, có nhiều hang động. Hồng Sơn ngày nay là một trong những xã có diện tích lèn đá vôi lớn của huyện Đô Lương. Diện tích đồng bằng chỉ chiếm 1/4 tổng diện tích đất toàn xã, đồi núi chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, để đấu tranh sinh tồn và ổn định cuộc sống, các thế hệ nhân dân vùng đất Tiên Nông đã chung lưng đấu cật, khai phá rừng rậm, mở rộng diện tích ruộng, vườn… Đến nay, xã Hồng Sơn có tổng diện tích đất tự nhiên là 1487,67 ha, trong đó: đất nông nghiệp 714,91 ha, đất lâm nghiệp 516,37 ha, đất chuyên dùng 155,21 ha, đất thổ cư 23,45 ha, đất chưa sử dụng 26,71 ha. Về thổ nhưỡng, xã Hồng Sơn có 5 loại đất đó là: đất phù sa được bồi đắp hàng năm, đất phù sa có lầy, đất phù sa có pha trộn với đất faralit, phù sa bạc màu, đất nâu vàng phát triển đất phù sa cổ, đất dốc tụ từ đồi núi, đất feralit đỏ vàng vùng đồi[7], đất faralit xói mòn trơ sỏi đá.

[7] .  Đất faralit đỏ vàng tích ra từ trên núi đá vôi; đất faralit đỏ vàng tích ra từ đá phiến sét: đất đỏ vàng tích ra từ đá macma.

Xã Tiên Nông xưa khí hậu ôn hòa, tuy đã vào tiết tháng 10 (thời tiết ghi theo âm lịch) vẫn ấm áp như thường; vào tiết tháng 4 có lụt tiểu mãn, sau lụt tiểu mãn trở đi có gió Tây Nam thổi mạnh làm cây cối héo khô đồng ruộng nứt nẻ, khi sắp có gió thì sấm chớp nhoang nhoáng; mùa thu và mùa đông không có sương tuyết nhưng có nhiều mưa lụt, tuy nhiên lụt lớn cũng chỉ một ngày là nước rút, vì trước năm 1937 chưa có đập Ba Ra Đô Lương[8], nên hễ mưa xong là nước rút ra Sông Lam ngay, phần nhiều là lũ hối mà ít lũ sóc. Từ năm 1938, sau khi đập Ba Ra Đô Lương vận hành, thôn Tiên Nông và Đồng Lạc thường bị nước lũ sóc từ Sông Lam tràn vào, hoặc nước hối từ nguồn đổ về cũng khó thoát nhanh; nếu gặp mưa vừa có lũ sóc vừa có lũ hối thì nước dâng rất nhanh ngập hết ruộng nương; thông thường 5 - 7 ngày, có khi đến hơn 10 ngày nước mới rút hết, làm cho lúa vụ thu hay bị lũ lụt phá hoại, làm ảnh hưởng đến việc bố trí cơ cấu gieo cấy vụ hè thu, mùa; điển hình là các trận lụt năm 1954, 1978, 1988...

[8] . Đập Ba ra Đô Lương khởi công năm 1930, hoàn thành năm 1937

III. SỰ HÌNH THÀNH DÂN CƯ VÀ LÀNG XÓM

Tìm hiểu tư liệu qua các gia phả của một số dòng họ lớn trong xã ta có thể biết phần nào về biến động dân cư tại xã Tiên Nông - Hồng Sơn qua các thời kỳ:
Thời Lê Trung Hưng:
+ Năm 1592, sau khi nhà Mạc suy vi Mạc Mậu Giang là con vua Mạc Phúc Nguyên (thân vương) phải chạy trốn, tránh sự truy sát của Nhà Trịnh. Ông có chạy lên xã Tiên Nông lấy người vợ thứ ba họ Cao, sinh con cháu và đổi thành họ Phạm Văn, 4 đời kế tiếp sinh nhiều nhưng chết hết, đến đời thứ 5 còn sót lại một người con trai là Phạm Văn Mông; sợ quá, 15 tuổi ông Mông chạy xuống Công Trung (Chợ Rộc) huyện Đông Thành sinh sống.
+ Theo Gia phả họ Nguyễn thôn Bỉnh Trung xã Văn Sơn thì Thủy tổ họ Nguyễn ta ở thôn Tiên Nông (khoảng 1600), đến đời thứ 3 thời vua Lê Dụ Tông (1709) chuyển về thôn Bỉnh Trung.
+ Theo sách Đặng Sơn khoa phả[9]: Thiếu khanh Nguyễn công (khuyết huý), làm quan đến đại lý tự …, con cháu di vào thôn Đồng Nàn[10] xã Tiên Nông huyện Đông Thành. Theo như giấy tờ đời cựu Lê (niên hiệu Cảnh Trị (1664), trưởng tôn Nguyễn Lê Chử lập nhà thờ cúng ruộng đất vào thôn Long Bố ghi như sau: “Phủ Diễn Châu, huyện Đông Thành, xã Tiên Nông, thôn Đồng Nàn…” Đó là dòng họ Nguyễn Bá.

[9] .  Công phả của xã Đặng Sơn xưa
[10] .  Thôn Đồng Nàn (Đồng Năn) về sau đổi là Đồng Xuân

+ Vào khoảng năm 1700, ông Hoàng Văn Chỉnh (chắt của ông Mạc Mậu Giang với bà vợ thứ năm ở thôn Đông Lũy nay thuộc xã Diễn Kim) đem theo mẹ và người cháu trai của ông Phúc Thọ (chi trên) là Hoàng Văn Tợng đến thôn Tiên Nông lập nghiệp. Ông Hoàng Văn Tợng và Hoàng Văn Chỉnh chính là thủy tổ của 2 chi họ Hoàng Văn ở các xóm 2, 3, 4 xã Hồng Sơn ngày nay.
+ Vào khoảng năm 1700, ông Tăng Thế Thụ ở giáp Nghiêm Thắng, tổng Đô Lương, huyện Nam Đường (nay là xã Yên Sơn, huyện Đô Lương) di cư đến thôn Cầu Trường [10b] xã Tiên Nông, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành (nay là xóm 9 xã Hồng Sơn) định cư và lập nghiệp. Đến đời thứ 3 vào khoảng năm 1775, một người con trai và một người con nuôi của ông Tăng Thế Sinh là ông Tăng Thế Diệm và ông Tăng Thế Luân chuyển xuống đầu thôn Tiên Nông (nay là xóm 4 xã Hồng Sơn) định cư và lập nghiệp, phát triển thành một chi họ Tăng; hai người con của ông Tăng Thế Tuân là Tăng Thế Quỵnh và Tăng Thế Bờng chuyển xuống giữa thôn Tiên Nông (nay là xóm 2 xã Hồng Sơn) định cư và lập nghiệp, phát triển thành một chi họ Tăng.

[10b] Cầu Trường nay thuộc xã Bồi Sơn, giáp với xã Hồng Sơn, cuối dãy lèn Thung Vưng.

Qua 5 câu chuyện trên thì có thể biết: Thời Lê Trung Hưng, xã Tiên Nông có thêm nhiều cư dân mới, thôn Tiên Nông lúc này đông đúc hơn và là trở thành trung tâm của xã, nên được chia thành 3 thôn (Tiên Nông Ngoài, Tiên Nông Trửa, Tiên Nông Trong).
Thời Tây Sơn, khi Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà, có một số dòng họ đến xã Tiên Nông lánh nạn và ở lại cư trú luôn:
+ Họ Phạm Ngọc: Như đã nêu trên (thời Lê trung hưng), ông Phạm Văn Mông từ Tiên Nông xuống Chợ Rộc sinh sống, lấy vợ sinh được 2 người con (1 trai, 1 gái). Năm 1786, ông lại đem theo con chạy về thôn Tiên Nông.
+ Họ Nguyễn Văn xóm 3 có nguồn gốc ở thôn Cấm Nẻ, huyện Chân Lộc, tỉnh Nghệ An. Năm 1786, ông tổ đem theo 5 người con trai lánh nạn tại thôn Quánh, tổng Quan Trung, huyện Đông Thành. Ba năm sau (1789), Quang Trung lại dẫn quân ra Bắc; sợ quá người cha bèn phân tán các con mỗi người một nơi. Ông Nguyễn Văn An là con út đến lánh nạn tại thôn Tiên Nông, sinh cơ lập nghiệp, phát triển cho đến nay.
+ Họ Nguyễn Doãn xóm 5 có nguồn gốc từ họ Nguyễn phúc, dòng dõi nhà chúa Nguyễn ở Thừa Thiên, bị Nguyễn Hữu Chỉnh vâng mệnh Nguyễn Huệ, quyết truy sát dòng họ Nguyễn Phúc; họ này khiếp sợ, chạy về thôn Tiên Nông ẩn dật và đổi sang họ Nguyễn Doãn. Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ 2, họ Nguyễn Doãn lại chạy sang Đồng Mội và ở lại sinh cơ lập nghiệp sinh con cháu cho đến nay.
Thời nhà Nguyễn: Có rất nhiều dòng họ di cư tới xã Tiên Nông như:  Họ Phan Đăng di cư từ thôn Phúc Yên xã Bạch Ngọc (nay thuộc xã Ngọc Sơn) vào thôn Tiên Nông năm 1845. Họ Đào di cư từ Bạch Ngọc (nay thuộc xã Lam Sơn) vào thôn Tiên Nông năm 1850. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thì có các họ: họ Nguyễn Cảnh, họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Quốc, họ Lê... di cư tới xã Tiên Nông sinh cơ lập nghiệp.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Cũng có nhiều dòng họ di cư tới xã Hồng Sơn, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều gia đình tản cư đến và sau đó họ ở lại cư trú luôn cho tới ngày nay.
Theo tiến trình lịch sử của đất nước, mỗi khi mở rộng đất đai mới chiếm được; các vua, quan, tướng lĩnh thường đưa dân của mình vào sinh sống để làm lực lượng hậu cứ, hậu cần phục vụ cuộc chiến và xây dựng cuộc sống cho nhân dân; ở xã Tiên Nông xưa, các quan và tướng lĩnh của phe thất bại thường về đây ẩn dật trốn tránh sự truy sát của phe chiến thắng; dù là dân di cư theo con đường nào thì phần lớn là dân từ các vùng ngoài Bắc vào định cư. Quá trình du nhập dân cư vào xã Tiên Nông, các cụm dân cư: thôn, xã và các địa danh sinh hoạt, sản xuất được hình thành và có nhiều thay đổi qua các thời kỳ:
Danh xưng Tiên Nông có từ bao giờ, đến nay vẫn chưa biết được chính xác, chỉ biết rằng: Theo gia phả họ Phạm Ngọc, thuỷ tổ họ Phạm Ngọc là Mạc Mậu Giang đã về Tiên Nông lánh nạn vào khoảng năm 1600 và ông lấy vợ người họ Cao ở đây. Như vậy, từ đầu thời Lê Trung Hưng đã có danh xưng Tiên Nông. Theo sách "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19"[11] , trang 106, xã Tiên Nông thuộc tổng Vân Trụ, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu; xã Tiên Nông lúc này có 6 thôn là: Cầu Trường, 3 thôn Tiên Nông, Đồng Mối (dân địa phương gọi là Đồng Mội) và Đồng Duy. Theo sách "Đồng Khánh dư địa chí"[12], trang 1249, xã Tiên Nông vẫn thuộc tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu. Sau cách mạng Tháng Tám 1945, thôn Tiên Nông chia thành các chòm: Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu (các chòm này tương ứng với 3 thôn Tiên Nông đầu thời nhà Nguyễn); giáp Đồng Lạc đổi gọi là xóm, trại Đồng Long đổi gọi là xóm.

[11] .  Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội năm 1981
[12] .  Nhà xuất bản Thế giới Hà Nội năm 2003

Danh xưng xã Hồng Sơn và các chòm xóm trực thuộc:
Năm 1953 chia tách các xã lớn đã thành lập sau năm 1945, đồng thời thống nhất cách đặt tên các xã là lấy một chữ trong tên của huyện dùng làm một chữ trong tên của xã, các xã của huyện Anh Sơn lấy chữ Sơn đặt sau tên xã. Xã lớn Thanh Sơn chia thành thành 3 xã: Hồng Sơn, Giang Sơn và Kỳ Sơn. Danh xưng xã Hồng Sơn được xác lập, tên gọi đó tồn tại cho tới ngày nay.
Ngoài danh xưng các thôn, chòm, xóm chính thức như trên, còn có một số danh xưng khác (không rõ là thời kỳ nào) lưu truyền trong nhân dân như: Đồng Nàn, Tiên Kiều, Lạc Nông, Tiên Triều, xóm Lối …
Quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt cũng hình thành các địa danh mà nhân dân tự đặt theo điều kiện tự nhiên hoặc sự kiện:
- Hóc, Chọ (các vùng đất ven thung lũng các đồi, nơi có nước sinh, nhân dân thường trồng lúa nước): Hóc Mua, Hóc Rùa, Chọ Văn, Chọ Nít, Chọ Tràm, Chọ Rốc, Lầy, Trọt , Khe Gát…
- Vệ (các vùng đất mới khai phá, lúc ban đầu trồng các loại hoa màu): Vệ Độ, Vệ Khế, Vệ Đế, Vệ Dâu, Vệ Lều …
- Đồng (những nơi trồng lúa nước hoặc hoa màu): Đồng Cừa, Đồng Chăm, Đồng Mè, Đồng Kim, Đồng Sắn, Đồng Lộng, Đồng Chăm, Cánh Diều …
- Cồn, Động, Thung (những nơi nhân dân khai thác lâm sản và làm nương rãy, có cồn là nơi tụ cư hoặc đặt các đền miếu thờ thần): Thung Vưng, Thung Mây, Động Cào, Động Cân Gạo, Nhà Diệu, Nhà Nan, Cân Chò, Cửa Trại, Mạ Vị, Mậu Yến, Cồn Ngang, Cồn Đồn, Cồn Kho, Cồn Rỏi, Cồn Trúc, Cồn Đình, Cồn Thờ, Cồn Thần, Nhà Vi …
- Ao, Vũng, Khe (những nơi đánh bắt tôm, cá, ốc …): Ao Nông, Vũng Đông, Vũng Đầy, Vũng Vỉu, Vũng Xối, Trường Pheo, Nước Bạc, Trộ Tép, Cá Khô …
- Đập (nơi nhân dân đắp đập bằng đất, kè đá để lấy nước tưới cho đồng ruộng): Đập Nước Bạc, Đập Trường Pheo.

IV. ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ VĂN HÓA TINH THẦN

1. Đời sống vật chất

Từ nửa thế kỷ 19 về trước, xã Tiên Nông chưa có nhiều ruộng lúa nước, nhân dân sống bằng nhiều nghề khác nhau. Ruộng lúa nước chỉ là những thửa ruộng ven khe, dưới hóc chọ và nơi thấp trũng dễ lấy nước. Sản xuất lệ thuộc vào thiên nhiên “được tại đất, mất tại trời”. Nhà cửa chủ yếu làm bằng tranh, tre, vách trét bằng bùn trộn rơm, sân đất. Đồ dùng sinh hoạt trong gia đình chỉ là giường tre, chiếu cói, mùa rét phải đánh tranh rạ hoặc tủ rơm. Quần áo xưa kia chỉ đóng khố bằng sợi cây, về sau thì có vải bố nhuộm củ nâu rồi ngâm bùn cho dày và bền mặc được lâu hơn. Nước ăn uống chỉ lấy từ các ao, vũng; về sau thì có đào giếng chung ở các thôn. Sinh hoạt thiếu thốn đủ bề; giao thông đi lại chủ yếu bằng đường mòn ven khe, quan trên về xã thì đi ngựa, nhân dân thì đi bộ. Sách Đồng Khánh dư địa chí (trang 1250) viết về huyện Đông Thành: "Sản vật: nhiều lúa thu, ít lúa hè. Dâu tằm, khoai, đậu đều có nhưng không nhiều lắm… Xã Tiên Nông và thôn Trường Kiều chịu nộp thuế đay…". Điều đó chứng tỏ lúc bấy giờ xã Tiên Nông dân sống bằng nhiều nghề (kiếm củi, chặt gỗ, thả lưới, đi câu, làm nương rãy, trồng hoa màu, làm ruộng …), sản xuất tự cung tự cấp, không có nghề gì là chính; nên khi nộp thuế phải chịu áp dụng biểu thuế sợi đay.
Ba năm 1929 - 1931, xã Tiên Nông bị hạn hán nặng kéo dài, ruộng đồng khô nứt nẻ, cây lau cù đã mọc lác đác giữa đồng ruộng; hổ cũng ra giữa đồng tranh chấp với người để bắt ếch nhái kiếm thức ăn. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, mọi người phải vào rừng đào củ mài, củ nâu, hái nấm... làm thức ăn, nhiều người ăn phải nấm độc thụng phậy cả người.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc sống của nhân dân đã bắt đầu khấm khá hơn. Nhà làm bằng gỗ, mái lợp ngói, tường xây, sân lát gạch ngày một nhiều hơn. Đồ dùng các gia đình đã có bàn ghế, gường, tủ… để sử dụng. Quần áo bắt đầu đã có vải dệt bằng bông hoặc tơ tằm. Nước ăn uống thì các gia đình đã đào để sử dụng ngày một nhiều. Đời sống và sinh hoạt của nhân dân ngày càng khấm khá.
Nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt của miền Trung, các thế hệ người dân Hồng Sơn luôn dựa vào sức mạnh đoàn kết, cần cù sang tạo, kiên cường, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để có được cuộc sống ổn định và phát triển như ngày nay, nhân dân Hồng Sơn, lớp cha trước, lớp con sau đã phải đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, công sức, thậm chí xương máu của mình trong quá trình chinh phục và cải tạo tự nhiên. Cho đến nay trên địa bàn xã đã có sự phát triển khá đa dạng của các ngành nghề: Nông nghiệp, thợ mộc, thợ nề, buôn bán, trong đó, nông nghiệp vẫn là nghề chính.
Về nông nghiệp: Người dân Hồng Sơn xưa nay vốn rất cần cù, chịu khó. Cây trồng chủ yếu ở đây là lúa và hoa màu.
Trước đây, phân bón ruộng chủ yếu là phân chuồng, phân xanh. Ngày nay, nông dân biết kết hợp phân chuồng với các loại phân hóa học bán trên thị trường để bón ruộng, đưa lại năng suất cao. Công cụ chủ yếu là cày, bừa, vồ đập đất, liềm, cuốc… đã dần được thay thế bằng các loại máy móc như máy cày, máy kéo, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho bà con nông dân.
Nghề chăn nuôi ở đây cũng phát triển sớm. Chăn nuôi gia súc, gia cầm chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp địa phương bởi vừa phục vụ bữa ăn hang ngày, vừa đáp ứng nhu cầu sức kéo, phân bón, tạo việc làm và thu nhập cho người dân. Trước đây, trâu bò chỉ có ở các nhà giàu, nhưng đến nay hầu như nhà nào cũng có một vài con. Việc chăn nuôi lợn, gà, vịt, ngan… cũng khá phổ biến, thức ăn cho chúng được tận dụng bởi những phụ phẩm từ nông nghiệp, cám bã từ xay xát. Trước kia, phần lớn các gia đình nuôi thả rông để chúng tự kiếm ăn nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Ngày nay, việc chăn nuôi được quy hoạch, có chuồng trại với thức ăn phù hợp nên sự tăng trưởng của đàn gia súc, gia cầm rất nhanh.

2. Đời sống tinh thần

Tín ngưỡng: Cũng như mọi người dân trên đất nước Việt Nam, người Hồng Sơn thờ cúng ông bà, tổ tiên. Mọi gia đình ở Hồng Sơn dù giàu có hay nghèo hèn, quan chức hay dân cày, con trưởng hay con thứ đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Hàng năm, vào các ngày Tết, ngày giỗ, rằm tháng Giêng, tết Đoan Ngọ, rằm tháng Bảy… mọi nhà đều tổ chức cúng đơm. Người có của thì mâm cổ tươm tất; nhà nghèo thì trầu cau, hương, rượu… không ai sao nhãng. Bàn thờ tổ tiên thì được đặt ở nơi trang trọng của ngôi nhà, là nơi linh thiêng nhất của mỗi gia đình. Hầu hết các họ trong xã đều có nhà thờ, để cúng Tổ tiên. Các họ lớn thì có nhà thờ họ khang trang, rộng rãi. Ở đây, tư tưởng biết ơn tổ tiên bao trùm lên hết thảy, công lao của cha ông, những đóng góp của các thế hệ tiền bối vào việc nước, việc làng trong chiều dài lịch sử là niềm kiêu hãnh của con cháu.
Phong tục: Ở Hồng Sơn, tôn trọng người già, hiếu thảo với cha mẹ được nhân dân đặt lên hàng đầu bởi truyền thống trọng lão là một trong những bản sắc văn hoá cao đẹp của người Việt Nam từ xưa đến nay. Họ tôn trọng người cao tuổi, giúp đỡ, chăm sóc người già cả, lắng nghe người đi trước răn dạy cho những kinh nghiệm sản xuất, chiến đấu và cả những lời hay, lẽ phải trong cuộc sống, trong quan hệ xã hội. Hàng năm, đến đầu tháng Giêng, con cháu, anh em nội, ngoại thường tổ chức lễ Yến lão (hay còn gọi là lễ Mừng thọ) để thể hiện sự thành kính, tôn trọng cha mẹ, ông bà và dòng họ.
Tục cưới hỏi của cư dân Hồng Sơn cũng mang những nét đặc sắc riêng. Trước kia, thông thường “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, trai gái lấy nhau đến khi cưới phải qua 6 lễ: Lễ Vấn danh, lễ Điểm nhãn, lễ Nạp tài, lễ Giai lan, lễ Vu quy và lễ Quy vinh phụ mẫu. Những người nghèo khó thì thủ tục cưới hỏi cũng được chước giảm, nhiều người con trai còn được gia đình bên nhà gái giúp đỡ và cho ở rể. Ngày nay, tục cưới hỏi được tổ chức đơn giản hơn, ít tốn kém và phù hợp với đời sống mới. Thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng thành tìm hiểu nhau trong quá trình lao động, công tác. Khi tình cảm thực sự đến độ chín sẽ báo với cha mẹ hai bên để chuẩn bị cho việc cưới xin. Tục thách cưới hay những thủ tục rườm rà dần bị đẩy lùi, thay vào đó là những nghi lễ phù hợp với khả năng của gia đình. Ngày cưới thực sự là ngày đại hỷ của đôi tân hôn cũng như hai gia đình nội ngoại, họ hàng, làng xóm. Tục cưới hỏi thể hiện tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm một cách rõ rệt. Qua đó, thấy được sự nhiệt tình của anh em, bà con hàng xóm, bạn bè thân hữu cả về vật chất lẫn tinh thần. Lễ cưới vừa thể hiện nét truyền thống, đồng thời cũng mang ý nghĩa trọng đại cả đời của đôi trai gái.
Tục tang lễ, ma chay ở Hồng Sơn cũng mang tính cộng đồng sâu sắc. Trong làng, trong xã bất cứ gia đình nào khi có người nhà ốm đau, bệnh tật, thì anh em, bà con lối xóm, kể cả đại diện đoàn thể, chính quyền xã đến thăm hỏi, động viên. Khi đau ốm nặng, anh em nội ngoại, bà con lối xóm thay phiên nhau tích cực chăm sóc, cứu chữa tận tình. Khi có người qua đời, không kể ngày đêm, mưa nắng, bà con thân hữu, anh em, bạn bè đều đến với gia đình để động viên chia sẻ và giúp đỡ những công việc cần thiết, sau đó đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đám tang, ngày giỗ là thể hiện sự thương xót, nhớ thương đối với những người đã khuất; đồng thời cũng là thời điểm để chủ gia đình có lời cảm ơn tới anh em, họ hàng, làng xóm đã giúp đỡ gia đình trong lúc tang gia. Hàng năm, đến ngày giỗ không chỉ là dịp để con cháu, anh em thể hiện lòng hiếu thảo mà còn là dịp để họ quây quần bên nhau thăm hỏi, động viên, chia sẻ những việc đã và chưa làm được. Do đó, trong ngày giỗ của ông bà, cha mẹ, dù con cháu ở xa cũng tập trung về đông đủ.
Bên cạnh các phong tục, tín ngưỡng trong các gia đình, thì ở Tiên Nông xưa kia còn có rất nhiều hoạt động văn hóa cộng đồng làng xã tại các đền, đình, chùa, miếu, nhà thánh... Trước đây, mật độ đền, chùa, đình, miếu, nhà văn thánh… khá dày đặc; cho đến cuối thời Nguyễn, chỉ tính riêng thôn Tiên Nông và giáp Đồng Lạc đã có đến 21 ngôi (2 đình, 2 đền, 14 miếu, 2 chùa, 1 nhà thánh). Cây đa (hoặc cây cổ thụ khác), giếng nước (hay bến nước) cũng rất nhiều, thôn nào cũng có. Hiện các nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã đã bị phá dỡ hết, chỉ còn lại một ít dấu tích nền, gạch, ngói. Rất may mắn là chúng tôi vừa sưu tầm được 10 sắc phong vua ban cho 7 vị thần; các hồ sơ về đền miếu và công tích của từng vị chưa tìm thấy. Tuy nhiên, theo tên gọi địa danh kết hợp với ý kiến của những người cao tuổi kể theo lối truyền khẩu ta có thể biết:
Đình Tiên Nông: Theo ông Phạm Ngọc Quyền đầu tiên đình được xây dựng sau nhà thờ họ Hoàng bây giờ, ban đầu vẫn còn đơn sơ, về sau bị xuống cấp và hư hỏng; mặt khác thôn Tiên Nông thời bấy giờ phát triển mạnh nên nhu cầu sinh hoạt của thôn cần phải có đình lớn hơn. Thời Minh Mệnh đình Tiên Nông được xây dựng mới tại Cồn Đình, trước đình là một con khe - nơi hợp lưu hai con khe từ hướng đông và hướng bắc, chảy ngoằn ngoèo như con rồng xanh uốn lượn rồi đổ ra sông Lam. Kiểu xây dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc; trên các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, đố, xà, ván gió, ván nong ... là nơi các tay thợ mộc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu khắc đình làng còn có giá trị to lớn phản ánh về cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân Tiên Nông trước đây; có giá trị lịch sử sâu sắc. Đầu năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, đình bị phá dỡ để làm trường học và chòi phát thanh. Theo ông Nguyễn Quốc Nhượng thì sau khi phá dỡ, ông có thấy một tấm ván có khắc chữ " Minh Mệnh tạo tác, Tự Đức tu lý " (sau 50 - 60 năm thì tu sửa). Điều này phù hợp với lời kể của ông Phạm Ngọc Quyền như đã nêu trên.
Đình giáp Đồng Lạc lúc ban đầu được xây dựng chung trong khu vực Chùa Cộ, về sau đình bị Pháp đốt cháy cùng với chùa. Cuối thế kỷ 19, sau khi lập thành giáp riêng (biệt triện), nhân dân giáp Đồng Lạc đã mua nhà của ông Nguyễn Bá Thể ở thôn Trường Thịnh về dựng làm đình. Đình làm theo kiểu nhà gỗ 2 gian 2 chái bằng gỗ lim chắc chắn. Năm 1953, UBHC xã Hồng Sơn đã dỡ, đưa về làm lớp học dựng phía trước chùa Cồn Nương (sát sân vận động cũ), về sau dỡ đưa ra làm đình chợ Cồn Thần, khi khôi phục lễ hội Đền Quả Sơn, nhân dân Hồng Sơn đã hiến cho huyện đem về dựng trong khu di tích Đền Quả Sơn.
Đền là một công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quá cố. Đền Chính giáp Đồng Lạc và Đền Cồn Thần thôn Tiên Nông cùng thờ Cao sơn Cao các thượng đẳng thần - vị thần cao nhất ở xã Tiên Nông trước đây.
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường được toạ lạc ở nơi xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và chỉ là nơi yên nghỉ của các vị thánh thần. Các miếu ở xã Tiên Nông thường làm theo kiểu hình chữ nhật, có 6 cột trong đó giữa là 2 cột bồng, chia làm hai phần nội điện và tiền tế. Nội điện được làm thành gác thờ, xung quanh đóng ván, có cửa kéo để mở ra phía tiền tế; trong nội điện đặt: ngai, bài vị, thần sắc và đồ thờ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ khe hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng: Miếu Bồng Bụt (Mạ Vị) thờ Đông Phương chi thần; miếu Cồn Thờ thờ Nam Quân chi thần; miếu Cồn Đình thờ Mạnh tướng chi thần; miếu Thung Mây thờ Bạch Y công chúa chi thần; miếu Vệ Cau thờ Đạo đức Linh mỹ (dân ta thường gọi là miếu Bà Đạo); miếu Bộng Mội thờ Vực nước Thái Giám chi thần; miếu Thung Vưng thờ Bà chúa Ngô[13], miếu này do người họ Tăng dựng nên để thờ vị thần ở quê hương của họ; miếu Cầu Mương thờ Mộc Thụ, đây là nơi người dân thường qua lại giao lưu giữa các vùng, khi đi đường đến đây hay dừng chân nghỉ ngơi ăn uống dưới gốc cây to, về sau cây chết khô nhưng người qua lại vẫn đông đúc nên người ta tự dựng miếu thắp hương cho việc đi lại được an lành; miếu Nhà Diệu thờ ông Lý Quang; miếu Cồn Nghè thờ Bà Nghè (vợ của một ông nghè có công với thôn); miếu Kho Vàng thờ Kho Vàng, khi xưa người dân buôn bán làm ăn qua đây (đường đi ven khe) thường đốt vàng mã ở miếu này để cầu cho sự buôn bán làm ăn được thuận lợi; miếu Nhà Vi phối thờ các vị: Thánh Mậu, Liễu Hạnh công chúa, Bạch Y công chúa; miếu Đồng Chăm, chưa rõ thờ vị nào, miếu Hậu Thổ, thờ hậu thần nhưng chưa rõ danh hiệu.

[13] .  Chỉ người Ngô, thuộc thời nhà Minh bên Trung Quốc.

Người dân thôn Tiên Nông xưa có câu: "Thung Vưng tiến sĩ, Mạ Vị trạng nguyên". Qua câu này ta có thể xét đoán: Bà chúa Ngô là vợ của một vị tiến sĩ; còn thần Phương Đông là một ông trạng nguyên. Tương truyền, ông Mạnh Tướng khi còn sống đã chọn khu đất tốt giữa đồng (về sau gọi là Cồn Trọc) để làm nơi mai táng sau khi chết, Ông đã chọn hướng theo câu nói: "đầu gối Mạ Vị, chân đạp Thung Vưng".
Dưới đây là 2 trong 10 sắc phong thần chúng tôi vừa sưu tầm được:


Tạm dịch:
Sắc cho ba thôn Tiên Nông, Đồng Xuân , Đồng Lạc; xã Tiên Nông; huyện Đông Thành; tỉnh Nghệ An đang phụng thờ Cao sơn Cao các thành hoàng tôn thần, đã có công giúp nước che chở dân rất linh thiêng.
Nay, vua đội ơn nối trải mệnh sáng của đất nước; nhớ về công lao to lớn của thần, gia tặng “Vi tịnh trấn phu hữu trạc dương trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng thần”.
Chuẩn y cho dân ba thôn trên phụng thờ thần như trước để thần ngầm giúp dân của ta.
Hãy vâng sắc !
Ngày 20 tháng 02, Thành Thái năm thứ 2 (1890)


Tạm dịch:
Sắc cho Giáp Đồng lạc xã Xuân Lạc huyện Đông Thành đang phụng thờ thần Cao sơn Cao các thống lĩnh thành hoàng tôn thần đã có công giúp nước che chở dân rất linh thiêng.
Nay, vua đội ơn nối trải mệnh sáng của đất nước; nhớ về công lao to lớn của thần, gia tặng “Vi trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng thần”.
Chuẩn y cho dân giáp Đồng Lạc phụng thờ thần như trước để thần ngầm giúp dân của ta.
Hãy vâng sắc !
Ngày mồng một, tháng 6, Thành Thái năm thứ 10 (1898)


Mời bạn đọc xem nội dung sắc phong bằng chữ Hán theo đường lin sau:

https://picasaweb.google.com/110161977911465503606/NoiDungCacSacPhong?authuser=0&feat=directlink
<table style="width:194px;"><tr><td align="center" style="height:194px;background:url(https://www.gstatic.com/pwa/s/v/lighthousefe_136.01/transparent_album_background.gif) no-repeat left"><a href="https://picasaweb.google.com/110161977911465503606/NoiDungCacSacPhong?authuser=0&feat=embedwebsite"><img src="https://lh6.googleusercontent.com/-mejAfoivIEg/UUgkdWMNDwE/AAAAAAAAAK0/LE8vDyeX2KQ/s160-c/NoiDungCacSacPhong.jpg" width="160" height="160" style="margin:1px 0 0 4px;"></a></td></tr><tr><td style="text-align:center;font-family:arial,sans-serif;font-size:11px"><a href="https://picasaweb.google.com/110161977911465503606/NoiDungCacSacPhong?authuser=0&feat=embedwebsite" style="color:#4D4D4D;font-weight:bold;text-decoration:none;">Nội dung các sắc phong</a></td></tr></table>

Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa ngoài thờ Phật còn thờ thần theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Chùa Tiên Nông chưa rõ được dựng vào thời nào, chỉ biết chùa được làm bằng gỗ, cột to và vững chắc. Xà, hạ, kèo chạm khắc tinh xảo. Chùa đặt ở vị trí cao ráo, thoáng mát ở động Cồn Nương; nội điện được bày rất nhiều tượng gỗ to và đẹp[14], xung quanh chùa là khu ruộng nương của chùa. Từ 1947 đến 1968 chùa được dùng làm lớp học. Thời kỳ đế quốc Mỹ đánh phá ra miền Bắc, UBHC xã cho Công ty Dược phẩm Nghệ An mượn làm kho thuốc. Năm 1969, đã bị anh Hoàng Văn Phòng (bị bệnh thần kinh) đốt cháy, do số thuốc Bắc và Đông Nam dược nhiều, lại cháy vào ban đêm nên chùa cũng bị cháy rụi. Chùa Cộ (Phật Tự) của giáp Đồng Lạc được làm ở xứ Chùa Cộ. Tháng tư năm Đinh Hợi (1887), quân Pháp bắt được Nguyễn Xuân Ôn, Pháp xua quân đi ruồng bố, bắt bớ nghĩa quân, đốt cháy các cơ sở của nghĩa quân; chùa Cộ là cơ sở của nghĩa quân đã bị Pháp đốt cháy.

[14] . Năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, UB xã đã cho thu các tượng cùng đồ tế khí đưa tập trung ở chùa thôn Đồng Xuân (nay thuộc xã Giang Sơn Đông).

Nhà Thánh: Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các đơn vị hành chính xã đều xây dựng Nhà Thánh; trong Nhà Thánh thờ Khổng Tử, Nhà Thánh đồng thời là nơi làm việc của Văn Hội xã, nơi đây thường ghi chép và lưu giữ các tài liệu về học hành, khoa cử và tài liệu của xã. Khi tìm hiểu tư liệu trong gia phả họ Phạm Ngọc 4 đời liên tiếp (cha, con, cháu, chắt) làm việc tại đây: cụ Phạm Văn Hộ làm Hương mục, cụ Phạm Văn Chuyên làm Hương mục kiêm Văn Hội xã, cụ Phạm Ngọc Trinh làm Văn chỉ thôn kiêm Văn Hội xã, cụ Phạm Ngọc Xự làm Hương bộ (hiện tại nhà ông Phạm Ngọc Quyền còn lưu giữ rất nhiều tài liệu bằng sách chữ Hán khoảng 20 quyển, tiếc rằng chưa được ai nghên cứu khai thác); họ Tăng có cụ Tăng Thế Diệm (tổ họ Tăng xóm 4) là Hội Tư văn cũng làm việc tại đây.
Một số khu sinh hoạt văn hoá khác của xã Tiên Nông:  Cây đa, giếng nước cũng rất nhiều, thôn nào cũng có vài ba nơi. Ở đây chính là những nơi sinh hoạt văn hoá đa dạng của cộng đồng thôn xã:
- Cây đa: Cây cổ thụ thường gắn với chợ, đình làng, đền, miếu như:
Cây Da Mật (ngày nay thuộc xóm 1) là nơi họp chợ, ban đầu chợ chủ yếu mua bán mật mía và một số nông sản và chợ họp dưới gốc cây da, nên gọi là chợ cây Da Mật. Đã một thời, từ nơi đây đã truyền tụng câu ca "Mía Vũng Đông, Bông xóm Chùa" đi khắp các vùng miền; đây không những ca ngợi mía, bông nhiều mà chính là ca ngợi chất lượng độc đáo sản phẩm. Về sau người đi buôn lại có cách mua hàng mới là đón người dân đi bán hàng trước chợ, dần dần nhiều người mua hàng kiểu như vậy nên đã hình thành Chợ Đón; Chợ Đón lúc đầu ở cây da Vệ Đá (Cồn Thần) về sau chuyển ra Cây Phượng (xóm 1). Dần dà về sau thì chợ cây Da Mật nhập luôn vào Chợ Đón.
Cây Da Chùa ở cửa ngõ vào thôn Tiên Nông và cây bàng giữa thôn (xóm 4 hiện nay) là nơi người dân nghỉ ngơi, tránh nắng khi đi sản xuất về, cũng là nơi để mọi người vui chơi; ban ngày lúc rỗi rãi và ban đêm, các nam thanh, nữ tú thường đến đây nhảy múa, ca hát và tâm tình; đây cũng là nơi trẻ em hay tổ chức chơi các trò chơi dân gian.
Cây Thị và cây Dè cồn Đình, cây Thị và cây Bồ kết cồn Thần, cây Sông và cây Thị cồn Thờ, cây Quéo (Xoài) Nhà Thánh, cây Da giáp Đồng Lạc, cây Sanh Đền Chính, cây Thị Đồng Chăm ... thì gắn với các đình, đền, miếu. Các cây cổ thụ nơi đây không những là biểu tượng uy nghiêm của các vị thần linh mà còn là nơi che chở cho người dân đến thắp hương phúng viếng. 
Giếng nước: các khu vực trong các thôn đều có giếng nước và bến nước như: Bến Ông Nông, Bến Nước Bạc, Bến Khe Đình, Bến Khe Lở ... giếng Hồ, giếng Chọ Văn, giếng Trúc, giếng Lối, giếng Cây Chò ... ngoài ra còn có một số giếng ở xa làng rất nhiều nước để phòng khi đại hạn như giếng Chọ Tràm, giếng Khe Gát, giếng Cân Thủy ... Không những là nơi cung cấp nước ăn uống, tắm giặt mà đây còn là nơi các bà mẹ thường chuyện trò, tâm tình rồi kết thành thông gia.
Các loại hình nghệ thuật ở Hồng Sơn cũng khá phổ biến, thể hiện nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân trong làng, trong xã. Cứ mỗi độ xuân sang, tiếng hát lại nổi lên rộn ràng. Họ hát mừng xuân, hát mừng lễ hội, đặc biệt là hát mừng những vụ mùa bội thu. Trước kia, các điệu hát đối, hát ví cũng là những tiết mục văn nghệ phổ biến trong các ngày lễ hội hay những đêm trăng thanh gió mát. Đã từng có những câu hát đối rất mượt mà, thể hiện khả năng ứng khẩu và khả năng thơ ca của người nông dân. Nội dung hát đối cũng phong phú, thể hiện tình cảm lứa đôi, tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu lao động sản xuất. Đồng thời, nó cũng mang những nét văn hoá đặc sắc riêng của từng làng.
Sinh hoạt văn hoá ở Hồng Sơn tuy đơn giản nhưng lại thắm đượm tính truyền thống văn hoá dân tộc và mang sắc thái riêng của địa phương. Nó trở thành tài sản văn hoá phi vật thể đáng trân trọng của nhân dân Hồng Sơn
Về giáo dục: Ngày xưa, dù đời sống còn nghèo khổ, khó khăn vất vả nhưng người dân ở đây vẫn chăm lo cho con cái học hành đến nơi đến chốn. Nhân dân Hồng Sơn đã đóng góp tiền của để xây dựng nhà Thánh thờ đức Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho để làm nơi sinh hoạt cho các bậc học chữ Nho. Tuy nhiên, xã Tiên Nông xưa không có người đỗ đạt cao (hương cống, tiến sĩ)[15] và làm quan cũng rất ít, chỉ có 1 người làm đến chức Ký huyện, 4 người làm đến chức tổng.

[15] . Tra cứu các sách: “Khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ, Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, “Khoa bảng Nghệ An” của Đào Tam Tỉnh.

Về y tế: Vào đầu Thế kỷ 18, xã Tiên Nông xẩy ra đại dịch làm chết hàng loạt người. Do không có trình độ nhận biết là dịch bệnh, dân chúng mê tín đồn đoán làm cho tư tưởng mọi người hoang mang lo sợ. Gia phả họ Phạm có ghi là do “loạn âm chết toi hết”, đến đời thứ 5 chỉ còn 1 người con trai, sợ quá mới 15 tuổi đã chạy xuống chợ Rộc, huyện Đông Thành. Họ Tăng từ thôn Nghiêm Thắng vào xã Tiên Nông, đời thứ 2 có 10 người con chết 7 chỉ còn có 3 người. Đến đời thứ 3 có một ông sinh được 9 người thì chết 8 còn 1. Còn một ông khác sinh 8 thì chết cả 8, nên ông phải lấy thêm một bà vợ nữa mới sinh được 1 người con trai. Người con trai này về sau mới sinh con cháu đông đúc như ngày nay. Một số dòng họ phải bỏ đất Tiên Nông tìm nơi ở mới như: họ Nguyễn về thôn Bỉnh Trung xã Văn Trường, họ Cao là một họ có ở xã Tiên Nông từ rất sớm nhưng họ cũng chạy đi đâu chưa rõ (nay ở Động Chè, Cồn Nương vẫn còn 2 ngôi mộ có khắc bia vào thời Lê triều: Nguyễn Tiên sinh và Cao Tiên sinh). Nên thời kỳ này dân số xã Tiên Nông giảm mạnh.
Thiết chế làng xóm ở Hồng Sơn thời phong kiến cũng như các địa phương khác rất chặt chẽ với 3 bộ phận chính: Thứ nhất: Đứng đầu bộ máy làng xã là các quan viên chức sắc, bao gồm: Lý trưởng, phó Lý và Ngũ hương. Thứ hai: Hội đồng Kỳ mục. Thứ ba: Các dịch, mục làng. Ngoài 3 bộ phận nói trên thì ở các làng xóm còn có Lệ làng và Hương ước. Lệ làng và Hương ước là những thiết chế kèm theo bên cạnh luật nước để đảm bảo tính ổn định và trật tự trong làng, xã. Cũng như các địa phương khác, nhân dân trong các làng ở đây cũng bị chi phối chủ yếu là lệ làng (Phép vua thua lệ làng). Từ sau cách mạng tháng Tám, những thiết chế cũ của xã hội phong kiến dần dần được xoá bỏ, mọi người dân đều thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo Hiến pháp và Pháp luật.

V. CÁC DẤU ẤN LỊCH SỬ CỦA HỒNG SƠN TRƯỚC NĂM 1930

Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, xã Tiên Nông xưa và sau là xã Hồng Sơn có một vị trí đặc biệt. Thời nào cũng là nơi che dấu, đùm bọc cho những người con ưu tú của đất nước và các dòng họ khi sa cơ lỡ vận; thời nào cũng là nơi trú ẩn an toàn cho các đơn vị, cơ quan khi đất nước có chiến tranh; thời nào cũng là hậu phương lớn của tiền tuyến; cũng từng có thời là trận địa chống giặc Pháp và bè lũ phong kiến bán nước...
Từ thế kỷ 16 chế độ phong kiến gần bị suy tàn, nội bộ giai cấp phong kiến trấn át, tranh giành và thôn tính lẫn nhau nên đã xẩy ra các cuộc nội chiến gay gắt.. Điển hình là 2 cuộc nội chiến: Nam - Bắc triều (1533 - 1592) giữa nhà Lê Trung Hưng với nhà Mạc và Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 - 1672) giữa nhà Trịnh ở Đàng ngoài và nhà Nguyễn ở Đàng trong. Tiên Nông là nơi tìm đến của những người con bị sa cơ lỡ vận như các quan lại của nhà Mạc... Năm 1729, Trịnh Giang lên cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Trịnh Giang phế bỏ vua Lê Duy Phường và sau đó giết chết, lập Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Không chỉ vua Lê, các đại thần có uy tín cũng bị giết hại. Trịnh Giang tiêu dùng xa xỉ, vì thế thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng khiến nhân dân Đàng Ngoài vô cùng cực khổ. Do đó, nông dân Đàng Ngoài đồng loạt đứng lên khởi nghĩa, ở Nghệ An có cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật[16].

[16] . Hoàng thân, con thứ vua Lê Dụ Tông; tháng 12 năm 1738 Duy Mật cùng chú là Duy Chúc, em là Duy Quý định đốt kinh thành để khởi sự, nhưng chưa kịp thi hành thì mưu kế đã bị tiết lộ, 3 người lập tức bỏ trốn vào cát cứ ở Trấn Ninh.

Ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta năm 1858 và dưới ách thống trị của chúng ngót một thế kỷ, nhân dân ta vô cùng khổ cực. Không cam chịu làm nô lệ cho Pháp, nhân dân khắp nơi trong nước đã liên tiếp vùng dậy cầm vũ khí để giải phóng dân tộc. Ở huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu có cuộc khởi nghĩa Nguyễn Xuân Ôn, trong đó nhân dân xã Tiên Nông đã có nhiều đóng góp trực tiếp. Vào tháng 5, năm Ất Dậu (đêm ngày 4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi hạ dụ Cần Vương, phụ chính Tôn Thất Thuyết (thay mặt vua) cử Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn làm An - Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại thần, có nhiệm vụ thống lĩnh nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh giúp vua, cứu nước. Nguyễn Xuân Ôn cùng Tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành, Phó bảng Lê Doãn Nhạ, Cử nhân Trần Quang Diệm, Cử nhân Đinh Nhật Tân lập chiến khu ở xã Quan Hóa huyện Yên Thành, nay là xã Đồng Thành. Xã Tiên Nông và các thôn xã lân cận như Tiên Đường (Thịnh Thành), Yên Mỹ (Bài Sơn) là nơi địa thế quân sự hiểm yếu, núi rừng liền nhau, các hang động, lèn đá nối tiếp nhau hiểm trở bao quanh thuận lợi cho việc luyện binh tụ nghĩa và giao thông liên lạc trong vùng. Ông Lãnh Ngợi một tướng giỏi của Nguyễn Xuân Ôn đã chọn nơi đây làm căn cứ. Các đồn ở động Cửa Trại, Cồn Đồn là những đồn chính của nghĩa quân, nay dấu tích vẫn còn hào lũy. Đồn Cửa Trại chính là trại gác tiền tiêu, cạnh bên là vị trí tiếp nhận lương thực gọi là động Cân Gạo. Phía trước ngoài cạnh đường cái quan là đồn hờ để canh gác từ xa, thăm dò, kiểm tra mọi hoạt động của bọn lính Tây, đó là động Đồn cạnh cầu Nghiêng. Trong suốt quá trình tụ nghĩa, nhân dân xã Tiên Nông đã tích cóp tiền bạc, lương thực để cung cấp cho nghĩa quân. Nổi bật thời kỳ này là cụ Hoàng Văn Điển (Cố Ký) họ Hoàng ở thôn Tiên Nông. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, nghĩa quân của Lĩnh Ngợi đến nhà Cố Ký; họ tổ chức xay lúa, đâm gạo, làm thịt trâu bò lợn gà; ăn uống, rồi họ mang gạo, thịt về căn cứ.  Trong đêm đó, có người báo với quan đồn, quan đồn lập tức đưa lính về bắt Cố Ký. Sáng ra, khi thấy quan đồn tới bất ngờ, biết là có chuyện chẳng lành, nghĩ đã có kẻ đi trình báo, Cố Ký bình tĩnh xử lý rắc rối một cách thông minh. Cố Ký chạy ra chào quan đồn bằng tiếng Pháp rằng: Trời ơi, ngài về muộn quá, bọn cướp chạy hết rồi; khi đêm bọn nó về nhà tôi cướp hết thóc đâm xay, cướp hết trâu bò lợn gà làm thịt đem chạy vào rừng rồi - vừa nói, ông vừa chỉ tay vào đống trấu, chuồng trâu bò, đống lông lợn, lông gà, lông vịt -  bọn chúng còn bắt thằng con tôi làm con tin. Tôi đã sai người đi báo với ngài về bắt chúng nó, mà giờ ngài mới tới; thật tội nghiệp cho thằng con tôi - rồi Cố khóc như thật. Tưởng Cố Ký nói thật, tên quan đồn từ thái độ hậm hực, chuyển sang thái độ vui vẻ, nó xuống ngựa bắt tay Cố nói: Ký huyện tốt tốt, lúc đầu tôi tưởng ông làm giặc. Cố Ký bắt tay tên quan đồn, mời cả bọn vào nhà ăn uống. Tối hôm sau, người của nghĩa quân về thôn bắt và giết cả nhà người đi báo quan đồn, chỉ trừ một người con dâu đang mang thai.   
 Đến tháng tư năm Đinh Hợi (1887), nhờ chỉ điểm, quân Pháp bất ngờ tập kích Đồng Nhân (nay là thôn Đồng Đức, xã Mã Thành, huyện Yên Thành), nơi Nguyễn Xuân Ôn đang nằm dưỡng thương sau trận Xóm Hố. Bị đột kích bất ngờ, không kịp tự sát, ông bị đối phương bắt được rồi lần lượt trải qua các nhà lao ở Diễn Châu, Vinh, Hải Dương, Huế. Nguyễn Nguyên Thành cũng bị bắt. Thực dân Pháp lại tăng cường đàn áp, ráo riết kiểm tra, khủng bố khốc liệt, triệt hạ làng mạc, xóm thôn. Tất cả vùng căn cứ của cuộc khởi nghĩa như Chùa Cộ, làng mạc của xã Tiên Nông bị phá tan hoang, hàng trăm người bị bắt bớ, tù đày. Ông Tấc Hai bị ông Thái Bá Hồ ở Đồng Xuân lập mưu giết chết, ông Tấc Bảy cũng bị bắn chết, những người còn lại bị đuổi ra khỏi làng, dồn tất cả về vùng Cồn Kho, Chọ Nít của làng Tiên Nông để chúng dễ bề kiểm soát, cô lập nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa thất bại.

Chương hai

HỒNG SƠN TỪ NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG ĐẾN CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM (1930 – 1945)

I. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN TIÊN NÔNG TRONG THỜI KỲ 1930-1931

Từ những năm 1929 đến 1931 là 3 năm liền nắng hạn không mưa, đồng khô cỏ cháy chỉ cũng trơ trọi lại những cây lau sậy trên đồng. Sống dưới chế độ thực dân, phong kiến người dân nơi đây phải chịu muôn vàn khổ cực. Đã bao phen nổi dậy tham gia ủng hộ phong trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo chống sưu cao thuế nặng, mong đỡ cảnh đọa đầy thân xác. Năm 1929 -1930, cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã ảnh hưởng đến các nước thuộc địa. Ở Việt Nam mọi hoạt động sản xuất bị đình đốn, đời sống của các tầng lớp nhân dân vô cùng điêu đứng, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh chống Pháp ngày càng dâng lên mạnh mẽ, nhiều tổ chức yêu nước lần lượt ra đời. Tháng 10 năm 1929, nhân kỷ niệm 10 năm CM Tháng Mười Nga. Kỳ bộ Trung kỳ rải truyền đơn ra lời kêu gọi: “Đánh đổ chế độ Nam Triều” “Chống bắt bớ tù đày” “Chống sưu cao thuế nặng”. Lời kêu gọi như luồng gió mới trong lành xua tan cái nặng nề ngột ngạt bấy lâu nay, như đồng cỏ khô châm lửa, lại được đổ thêm dầu. Nhân dân thôn Tiên Nông, giáp Đồng Lạc đồng tình ủng hộ, hừng hực khí thế đấu tranh.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ở Nghệ An, sau khi thành lập, Tỉnh uỷ đã phân công cán bộ đi xuống các phủ, huyện trong tỉnh để xây dựng tổ chức. Ở Anh Sơn, Phủ uỷ lâm thời được thành lập, quyết định chuyển các tổ chức Đông Dương cộng sản Đảng trong toàn phủ thành các chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 3 năm 1930, cấp trên tuyên bố: đồng chí nào ở gần thôn xã nào có điều kiện phát triển cộng sản được thì tìm điều kiện mà phát triển cho khắp các thôn xã. Đồng chí Đào Văn Uân (Thơn) và đồng chí Lê Khắc Cơ (Mai Cơ) là người của tổ chức Cộng sản ở Bạch Ngọc (nay thuộc xã Bồi Sơn) vào thôn Tiên Nông bắt liên lạc với ông Hoàng Văn Cúc, hướng dẫn ông Cúc cách thức phát triển phong trào và phải bí mật triệt để. Tháng 6 năm 1930, ông Cúc đã báo cáo lại với ông Uân đã có thêm ông Thái Bá Phi (bí danh là Lâm), Bùi Văn Du[17] (bí danh là Sơn) là những người trung kiên, tích cực hoạt động; ông Uân đã báo cáo với cấp trên, 3 ngày sau có thông báo về tổ chức cho 3 người này lập thành một tổ đảng, cử đồng chí Hoàng Văn Cúc làm Tổ trưởng. Thế là ở thôn Tiên Nông đã có tổ chức đảng (rất bí mật nhưng lãnh đạo phong trào diễn ra sôi động); Đảng đã tuyên truyền vận động quần chúng xây dựng tổ chức Nông Hội đỏ, Thanh Niên xích sắt, Phụ Nữ giải phóng làm nòng cốt cho các cuộc biểu tình, rải truyền đơn, cắm cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm những nơi quan trọng. Nổi bật trong thời kỳ này là các ông, bà: Hoàng Văn Cúc, Võ Viết Chương, Tăng Văn Độ, Nguyễn Hữu Thận, Hoàng Văn Phương, Đào Văn Toản, Nguyễn Văn Yên, Phan Thị Nhu và một số người khác[18]. Người trực tiếp cắm cờ đỏ sao vàng lên cây Da Mật là anh Võ Viết Chương. Người cắm cờ lên cây Da Chùa là anh Nguyễn Văn Yên. Một số người khác rải truyền đơn, khẩu hiệu khắp thôn. Phong trào ngày càng lan rộng, số người tham gia ngày một đông thêm, thôn nào cũng có số lượng hạt nhân phong trào, đã có hàng chục người trong số đó sau này trở thành đảng viên của Đảng.

[17] . Theo lời kể của cụ Đào Văn Uân đảng viên năm 30 ở xã Bồi Sơn: Hoàng Văn Cúc (xóm 4), Thái Bá Phi (người thôn Đồng Xuân, là anh rể của ông Cúc và ở rể cạnh nhà ông Cúc), Bùi Văn Du (người thôn Trường Kiều).  
[18] . Võ Viết Chương (tên thường gọi là Thọ, xóm 1), Tăng Văn Độ (tên thường gọi là Xán, xóm 8), Hoàng Văn Phương (tên thường gọi là Chương, xóm 2), Nguyễn Hữu Thận (ông Chung xóm 2), Đào Văn Toản (xóm 2), Phan Thị Nhu (bà Bản, xóm 3), Nguyễn Văn Yên (xóm 4, nay không còn con cháu, là bác ruột ông Nguyễn Văn Huệ).




Đồng chí Hoàng Văn Cúc - người đảng viên cộng sản đầu tiên của thôn Tiên Nông
ảnh chụp năm 1950  (40 tuổi )

Tháng 7 năm 1930, nhân dân thôn Tiên Nông cùng với nhân dân các thôn trong tổng Yên Lăng phối hợp với nhân dân 2 tổng Vân Hội, Vân Tụ huyện Yên Thành kéo về Động Lều Hiệp Hòa (nay thuộc xã Hòa Sơn) nghe anh Nguyễn Hồng Hạnh quê ở Thanh Chương diễn thuyết. Kêu gọi nhân dân hãy đứng lên đòi tự do dân chủ, đòi ruộng đất cho người nghèo. Sau cuộc mít tinh ở Động Lều đã để lại trong lòng nhân dân ấn tượng rất sâu sắc. Đó là: Chỉ có đấu tranh mới đem lại quyền lợi cho người nghèo.
Tháng 8 năm 1930, nhân dân thôn Tiên Nông nòng cốt là nông dân, thanh niên, phụ nữ cùng với các thôn Yên Lương, Trung Hậu, Đồng Xuân, Tràng Ná (Giang Sơn), Làng Rào (Tân Kỳ), Tràng Kiều (Thịnh Thành) đội ngũ chỉnh tề, tay cầm giáo mác gậy gộc rầm rập kéo đến nhà lý trưởng ở Năn Mới là Cửu Vợi đấu tranh phá kho thóc chia cứu đói cho nhân dân; thôn Tiên Nông mỗi hộ được phát 3 nồi lúa và 6 hào bạc. Cũng thời gian này nhân dân cả thôn dưới sự lãnh đạo của các tổ chức, liên tiếp tổ chức các cuộc biểu tình thị uy nhằm uy hiếp các chức sắc, hào lý và địa chủ, cường hào; bắt lý trưởng thôn ra các địa điểm đình chùa để đấu tranh, cảnh cáo răn đe.
Tháng 9 năm 1930, rút kinh nghiệm từ thắng lợi cuộc biểu tình ngày 2 và 3 tháng 6 năm 1930 của nhân dân 3 tổng: Đặng Sơn, Lãng Điền và Đô Lương. Tỉnh ủy Nghệ An do đồng chí Hoàng Trần Thâm, Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo Phủ uỷ Anh Sơn, lãnh đạo nhân dân tiếp tục biểu tình trong toàn phủ. Sáng ngày 8/9/1930, nhân dân khắp nơi trong phủ nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Khắp các thôn xóm trong phủ trống mõ, nổi lên; cờ bay rợp trời; nhân dân khắp nơi đổ ra đầy đường, khí thế hừng hực mang theo giáo mác, gậy gộc... Tất cả chia làm 5 mũi từ các tổng: Lãng Điền, Đặng Sơn, Yên Lăng, Bạch Hà, Thuần Trung, Đô Lương cùng tiến về phủ lỵ. Tại trung tâm phủ lỵ có hàng nghìn người tập trung tại truông Cồn Đọi. Bên kia sông Lam, nhân dân tổng Đặng Sơn hơn 8 000 người tham gia, kéo xuống bãi cát Đặng Lâm chuẩn bị vượt sông phối hợp với nhân dân bên phiá Tả ngạn Sông Lam. Hoảng sợ trước sức mạnh đông đảo của quần chúng nhân dân, thấy nguy cơ có thể mất phủ lỵ, thực dân Pháp trong phủ lỵ vội xin máy bay cầu viện. Máy bay địch đã đến uy hiếp giải tán cuộc biểu tình, chúng đã ném bom vào đoàn người biểu tình ở Truông Cồn Đọi làm chết tại chỗ 9 người và hàng chục người bị thương nặng; sau đó máy bay vòng lên bỏ bom ở Hói Quai. Được máy bay yểm trợ, bọn lính Pháp trong phủ lỵ và Đồn Lường, Đồn Mượu lấy lại được tinh thần, chúng tổ chức cho lính mang theo vũ khí ra chặn các đoàn biểu tình. Trong cuộc biểu tình ngày 08/9, nhân dân các thôn: Tiên Nông, Vĩnh Giang, Tràng Ná, Phượng Kỳ tập trung tại đình thôn Vĩnh Giang để kéo ra Bàu Lụi, Cồn Trăn, Đồn Mượu (xã Bạch Ngọc). Anh Lê Văn Trước người Vĩnh Giang cầm cờ đi đầu, đến Cồn Trăn thì bọn lính Tây lên chặn đường; mặc cho bị máy bay ném bom và bọn lính ngăn cản, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hừng hực khí thế, đoàn biểu tình vẫn kiên quyết tiến lên và bọn lính Tây đã nổ súng vào đoàn biểu tình. Anh Lê Văn Trước, người cầm cờ đi đầu bị thương ở mắt và tai; chị Vương Thị Hiên người thôn Tiên Nông bị thương nặng, những người tổ chức phong trào đã đưa người bị thương về; về đến nhà thì chị Hiên hy sinh. Những người chỉ huy nổi bật phong trào thời kỳ này là các ông, bà: Hoàng Văn Cúc, Võ Viết Chương , Tăng Văn Độ, Thái Đình Thiềng, Phan Thị Nhu, Phạm Ngọc Hợp, Nguyễn Thị Nậy và nhiều người khác[19]. Để củng cố tinh thần cho nhân dân sau khi cuộc đấu tranh bị khủng bố, Phủ Ủy Anh Sơn đã kịp thời chỉ thị cho các cơ sở, lãnh đạo nhân dân tổ chức lễ truy điệu các đồng chí đã hy sinh và giúp đỡ những người bị thương. Tuy cuộc biểu tình kết quả chưa cao nhưng cũng đã thể hiện khí phách đấu tranh mạnh mẽ của phong trào quần chúng những buổi đầu non trẻ.

[19] . Vương Thị Hiên (chị ruột ông Vương Đình Lục ở xóm 1), Thái Đình Thiềng (xóm 2), Phạm Ngọc Hợp (xóm 3), Nguyễn Thị Nậy (xóm 3, là em ruột ông Nguyễn Văn Yên, mẹ ông Nguyễn Văn Dinh, lúc đó bà là trưởng Hội phụ nữ thôn).

Từ những năm 1931 – 1932, bọn thực dân phong kiến lại tăng cường bộ máy kìm kẹp, thẳng tay đàn áp, khảo tra, khủng bố phong trào cách mạng. Chúng truy lùng bắt bớ tù đày những người cộng sản và những hạt nhân xây dựng phong trào. Ông Đào Văn Uân là người trực tiếp liên lạc xây dựng tổ chức phong trào ở thôn Tiên Nông cũng bị bắt và đưa đi tù, ông Bùi Văn Du (Sơn) ở Tràng Kiều cũng bị bắn chết ở Yên Mỹ (Bài Sơn) do Bang Tơn bố trí bắn chết. Liệt sĩ Bùi Văn Du được Đảng bộ và nhân dân xã Thịnh Thành quy tập về xã; một số bị bắt tù đày, phong trào tạm lắng xuống.

II. CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN THÔN TIÊN NÔNG TRONG GIAI ĐOẠN 1932 – 1939

Đến cuối năm 1934, sau 3 năm ở tù ra, ông Đào Văn Uân lại được tổ chức phân công tiếp tục vào thôn Tiên Nông bắt liên lạc với anh Hoàng Văn Cúc để gây dựng lại phong trào, phát triển thêm hạt nhân của tổ chức để hưởng ứng phong trào Bình Dân Pháp. Vận động nhân dân tiếp tục đấu tranh chống bọn cường hào, tham ô, ức hiếp dân lành, chống sưu cao, thuế nặng; xây dựng các tổ chức ái hữu tương tế. Đẩy mạnh xây dựng các phường hội như: Hội Hiếu, Hội Trò nhằm ca ngợi các anh hùng dân tộc như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Lê Lợi, Nguyễn Trãi…
Mùa thu năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng cộng sản làm nòng cốt đã thắng cử trong nghị viện, đứng ra thành lập chính phủ. Nhân thời cơ này, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, tập hợp mọi lực lượng dân chủ tiến bộ đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống. Ngày 29 tháng 2 năm 1937, phái đoàn Chính phủ Pháp do Gôđa dẫn đầu sang Việt Nam. Tại thành phố Vinh, hơn hai vạn nhân dân đã tổ chức mít tinh và đưa các bản yêu sách của nhân dân cho phái đoàn của chính phủ Pháp với các nội dung:
- Đại xá chính trị phạm.
- Thực hiện tự do dân chủ.
- Bỏ thuế thân.
- Chia công điền, công thổ cho dân cày nghèo.
Để củng cố cơ sở Đảng, lãnh đạo nhân dân đòi quyền dân sinh, dân chủ, đánh đổ đế quốc, phong kiến, ngày 19/3/1937, được Tỉnh uỷ Nghệ An phê chuẩn, các đồng chí đảng viên trung kiên đã tổ chức Đại hội, khôi phục lại Đảng bộ Anh Sơn tại làng Cự Đại, bầu ra Ban Chấp hành gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Tất Thắng làm Bí thư Phủ ủy.

Sau Đại hội, Phủ ủy đã cử các đồng chí: Đặng Sĩ Đối, Trần Sĩ Lung, Hoàng Trần Phô về trực tiếp vào một số làng để tìm hiểu các đồng chí đảng viên qua các thời kỳ tù đày, khủng bố của địch (thoái trào) có kiên định lập trường không; nhằm khôi phục lại một số Chi bộ đã tan rã. Đồng chí Hoàng Trần Phô được giao trực tiếp bắt liên lạc với các đồng chí: Hoàng Văn Cúc, Đào Văn Uân, Lê Khắc Cơ để bàn bạc việc khôi phục lại tổ chức đảng ở Tiên Nông; đồng thời vận động đồng chí Hoàng Văn Cúc ra tranh cử chức lý trưởng thôn. Khi thôn Tiên Nông tổ chức bầu lại lý trưởng, với 3 ứng cử viên là: ông Hường, ông Độ và ông Cúc. Được tổ chức bố trí tuyên truyền vận động nhân dân đồng tình ủng hộ nên ông Hoàng Văn Cúc đã đắc cử lý trưởng thôn Tiên Nông. Đây là thắng lợi đầu tiên quan trọng của tổ chức và là cơ sở cho việc xây dựng phong trào cách mạng. Theo báo cáo của đồng chí Hoàng Văn Cúc với đồng chí Đào Văn Uân, ở Tiên Nông đã vận động được 5 người để thành lập Tổ đảng: Hoàng Văn Phương, Tăng Văn Độ, Hoàng Văn Quý, Trương Văn Hội, Hoàng Văn Chín[19]. Đồng chí Đào Văn Uân đã báo cáo lên cấp trên và được cấp trên thông báo quyết định khôi phục lại Tổ đảng ở Tiên Nông do đồng chí Hoàng Văn Phương làm Tổ trưởng. Tổ đảng thường xuyên sinh hoạt tại nhà thờ họ Hoàng Văn để lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân.

[19].  Hoàng Văn Quý (xóm 4), Trương Văn Hội (xóm 4), Hoàng Văn Chín (xóm 3).

Thời kỳ này, một số người của tổ chức cộng sản từ các vùng khác lần lượt về Tiên Nông  hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như nghề cắt thuốc bắc, thầy dạy chữ, lái buôn, đánh bạc… Thầy Chu, tên thật là Phạm Xuân Hy quê Diễn Châu về dạy chữ Nho ở tại nhà cố Miện (cố Song); thầy vừa dạy chữ vừa tuyên truyền lòng yêu nước, căm thù giặc nhằm vận động xây dựng tổ chức. Tiếp đó là thầy Công tên thật là Phạm Tư cùng quê Diễn Châu về đây một thời gian ngắn sau đó chuyển về thôn Yên Mỹ (Bài Sơn); bị lộ nên bị bắt tại nhà Đồ Hoan và sau bị bắn chết. Một số người khác lại về thôn Tiên Nông như thầy Hạp (Yên Thành), thầy Mận (Đô Lương), thầy Sâm (Bạch Ngọc) làm nghề dạy chữ và cắt thuốc bắc. Anh Lái tên thật là Trần Hữu Doánh quê ở Thanh Chương làm thông ngôn cho Nhật nhưng lại là người của tổ chức đảng, giả danh lái buôn tìm người đánh bạc, trực tiếp về nhà lý trưởng thôn Tiên Nông là ông Hoàng Văn Cúc để bắt liên lạc; sau đó lên vùng Vĩnh Giang, Tràng Ná, Ngọc Mỹ để hoạt động. Do sơ suất khi thông ngôn, bọn Nhật nghi anh Lái làm phản nên bắn chết tại trại Sip Cô. Tất cả những người về hoạt động vùng này đều được lý trưởng thôn Tiên Nông che chở. Nhà thờ họ Hoàng Văn và nhà lý trưởng thôn Tiên Nông lúc đó chính là địa điểm hoạt động tổ chức đối với phong trào.
Mùa thu năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng cộng sản làm nòng cốt đã thắng cử trong nghị viện, đứng ra thành lập chính phủ. Nhân thời cơ này, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, tập hợp mọi lực lượng dân chủ tiến bộ đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống. Ngày 29 tháng 2 năm 1937, phái đoàn Chính phủ Pháp do Gôđa dẫn đầu sang Việt Nam; đến thành phố Vinh, hơn hai vạn nhân dân đã tổ chức mít tinh, đón đoàn và đưa các bản yêu sách của nhân dân cho phái đoàn của chính phủ Pháp với các nội dung:
- Đại xá chính trị phạm.
- Thực hiện tự do dân chủ.
- Bỏ thuế thân.
- Chia công điền, công thổ cho dân cày nghèo.
Để củng cố cơ sở Đảng, lãnh đạo nhân dân đòi quyền dân sinh, dân chủ, đánh đổ đế quốc, phong kiến; ngày 19/3/1937, được Tỉnh uỷ Nghệ An phê chuẩn, các đồng chí đảng viên trung kiên đã tổ chức đại hội, khôi phục lại Đảng bộ Anh Sơn tại làng Cự Đại, bầu ra Ban Chấp hành gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Tất Thắng làm Bí thư Phủ ủy. Tháng 3 năm 1938, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thành lập Hội truyền bá quốc ngữ để nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, giúp nhân dân tiếp thu được chủ nghĩa yêu nước, các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản. Hội truyền bá quốc ngữ Trung ương được thành lập, do cụ Nguyễn Văn Tố - một thân sỹ yêu nước làm Hội trưởng. Hội tổ chức quyên tiền để có kinh phí mua sách giáo khoa cung cấp cho học sinh. Tại thôn Tiên Nông, học trò bắt đầu chuyển sang học chữ Quốc ngữ, người dạy là thầy Nguyễn Thường[20].

[20] . Nguyễn Thường, người thôn Nhân Trung là cán bộ Mặt trận Việt minh phản đế hoạt động bí mật, vào thôn Tiên Nông dạy học.

III. CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 – 1945)

Ngày 1/9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở Việt Nam, bọn đế quốc điên cuồng tấn công Đảng Cộng sản, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức do Đảng lãnh đạo; báo chí tiến bộ bị đóng cửa, các tổ chức dân chủ, những quyền lợi của quần chúng đấu tranh giành được bị thủ tiêu … Để phục vụ chiến tranh, một thời gian sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, thực dân Pháp đã bắt 8 vạn lính Việt Nam đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn cho chúng; thôn Tiên Nông bị chúng bắt 3 người đi lính khố đỏ (Hoàng Văn Tấn, Hoàng Văn Chín, Nguyễn Quốc Thường) và 6 người đi lính khố xanh[21] (Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Miển, Phan Đăng Trọng, Phạm Ngọc Vợi, Dương Công Hiêng, Nguyễn Xuân Mân). Tình hình đó lại càng làm cho bọn phản động Pháp ở Đông Dương ra sức vơ vét của cải của nhân dân. Trước cảnh áp bức bóc lột nặng nề, nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm lật đổ ách thống trị đế quốc, phong kiến diễn ra khắp nơi: Ngày 27/9 /1940, khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Ngày 23/11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ.  Ngày 13/1/1941, khởi nghĩa Đô Lương cũng nổ ra. Các cuộc khởi nghĩa này đã có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

[21] . Lính khố đỏ: đi lính cho Pháp tại Việt Nam. Lính khố xanh: đi lính cho Pháp tại các nước thuộc địa của Pháp.

Đêm 13, rạng ngày 14 tháng 1 năm 1941, ông Nguyễn Tri Cung (tức Đội Cung) cùng ông Cai Á và binh lính yêu nước ở đồn Rạng (Thanh Chương) đã nổi dậy kéo quân về Đô Lương. Nghĩa binh được chia làm hai bộ phận, một bộ phận do Đội Cung trực tiếp chỉ huy tiến vào nhà Bưu điện, phá máy điện thoại, điện đài. Sau đó, Đội Cung dẫn nghĩa binh tiến vào đồn Đô Lương giết tên đồn trưởng Bạch và vợ hắn. Nhóm thứ hai do ông Cai Á chỉ huy tiến về nhà Đoan giết tên đồn trưởng Rô-Chai rồi tiến vào phủ đường giết tên tri phủ, nhưng xếp Đoan đi vắng và tên tri phủ trốn thoát.
Hạ xong đồn Đô Lương, Nguyễn Tri Cung cùng binh lính yêu nước kéo về Vinh tiến đánh bọn binh lính trong thành. Do chưa chuẩn bị chu đáo, nên khi đánh vào thành, nghĩa binh bị thất bại. Nguyễn Tri Cung và một số binh lính yêu nước rút lui vào ẩn một nơi bí mật. Một tên phản bội đã chỉ điểm để giặc Pháp bắt ông. Ông và nhiều binh lính bị thực dân Pháp tra tấn và bị kết án tử hình. Nắm chắc tình hình và diễn biến cuộc nổi dậy, Phủ ủy Anh Sơn đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết rải truyền đơn tuyên truyền khắp các vùng trong huyện về ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Đội Cung. Tấm gương chiến đấu của Nguyễn Tri Cung và binh lính yêu nước nổi dậy chống Pháp đã thôi thúc nhân dân trong huyện vùng lên góp phần cùng nhân dân các nơi khác đập tan xiềng xích nô lệ, giành lại độc lập, tự do cho quê hương, đất nước. Nhiều bài vè được đặt ra để ca ngợi Đội Cung được truyền miệng nhau mà lan rộng. Thôn Tiên Nông có ông Nguyễn Hữu Thận là người được tổ chức phân công tuyên truyền bài vè: “Nước Nam có kẻ anh tài, mười ba tháng chạp[22] sắp bày binh cơ, nguyện cùng thiên địa dưới cờ…”. Bài vè được lưu truyền theo hình thức truyền miệng hát vè, hát xẩm cho mãi tới nay nhiều người cao tuổi vẫn thuộc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Phủ ủy Anh Sơn, nhân dân đồng tình ủng hộ nhất là các tổ chức như Nông Hội, Phụ Nữ, Thanh Niên… Thôn Tiên Nông có sự hỗ trợ của tổ chức thanh niên đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, các hạt nhân tổ chức nổi bật thời kỳ này là ông Võ Viết Chương, ông Thái Đình Thiềng, ông Tăng Văn Độ, ông Hoàng Văn Phương, ông Nguyễn Thường, ông Hoàng Văn Quý, ông Trương Văn Hội và một số người khác, nhiều người sau đó đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Từ cuối năm 1942 đầu năm 1943, thực dân Pháp lại tăng cường bộ máy kìm kẹp, tổ chức nhiều cuộc truy lùng bắt bớ tù đày những người tham gia các phong trào cách mạng, đàn áp các cuộc mít tinh biểu tình, cấm các nơi tụ họp đông người, kìm kẹp khảo tra cực hình đối với những người mà chúng đã bắt và nghi ngờ là người đứng đầu các tổ chức, phong trào lúc này lại tạm lắng xuống.

[22] .  Theo âm lịch.

Để tiếp lãnh đạo phong trào, ông Đào Văn Uân đã vào thôn Tiên Nông vận động được 6 người để thành lập tổ Việt Minh (bí mật) gồm: Tăng Văn Độ, Hoàng Văn Thận, Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Cúc, Hoàng Văn Quý; do ông Tăng Văn Độ làm tổ trưởng.

Đến cuối năm 1943, phong trào dần được khôi phục, mở đầu bằng các lớp dạy chữ quốc ngữ. Người đầu tiên dạy chữ quốc ngữ là thầy Lê Đăng Cởn[23]; thầy vừa dạy chữ vừa hoạt động tuyên truyền tích cực trong phong trào Việt minh phản đế. Lúc này nhiều người đến để học chữ và cũng có nhiều người đến để nghe tin tức phong trào cách mạng. Đo đó người đến học mỗi ngày một đông, với tinh thần nô nức phấn khởi, từ đó phong trào cách mạng dần được phát triển mạnh mẽ hơn.

[23] . Lê Đăng Cởn người thôn Nhân Trung, do thầy Thường (là cậu ruột) đưa vào Tiên Nông từ năm 1941 để học (lúc đó mới 15 tuổi), năm 1946 được kết nạp đảng; sau về quê vợ ở huyện Anh Sơn.

Đầu năm 1945 tổ chức lập Hội Thanh niên cứu quốc gồm 30 người: Hoàng Văn Thận, Tăng Văn Độ, Nguyễn Văn Xuyến, Nguyễn Xuân Hợi, Vương Đình Lục, Nguyễn Bá Luân, Hồ Đình Đảnh, Trần Văn Quỳ, Nguyễn Cảnh Khiêm, Nguyễn Cảnh Nhượng, Đào Văn Quế, Lê Văn Triện, Mai Văn Thẩn, Nguyễn Bá Tý, Đào Văn Huỳnh, Đào Văn Toản, Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Quý, Hoàng Văn Túy, Bùi Trọng Nghiêm, Nguyễn Xuân Phiếu, Hoàng Văn Tám, Nguyễn Xuân Kiểu ….
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ quân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Đêm 09/3/1945, bọn Nhật nổ súng đánh chiếm đồn Đô Lương. Chỉ sau gần một giờ đồng hồ, tên đồn trưởng và toàn bộ binh lính ở đây đều bị Nhật bắt. Từ đây nhân dân ta chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Gần tám mươi năm bị thực dân Pháp bóc lột đến tận xương tuỷ, nhân dân ta đã cực khổ trăm bề, phát xít Nhật lại tràn vào áp bức, vơ vét của cải, nhân dân ta lại càng cực khổ hơn. Chỉ mấy tháng cuối năm 1944 và đầu năm 1945, ở miền Bắc đã có hơn 2 triệu đồng bào bị chết đói. Biết bao nhiêu người con của thôn Tiên Nông, cũng giống như các thôn, xã khác đã phải bỏ nhà, bỏ cửa tha phương cầu thực, hàng chục người chết đói một cách thê thảm. Trong những ngày đau thương đó, dọc đường phủ lỵ Anh Sơn lên Chợ Lường, Chợ Cầu người đi ăn xin chết đói đầy đường, đầy chợ; người ta phải dùng xe bò chở người chết và chôn họ vào những cái hố tập thể ... Chính nỗi đau thương này càng thôi thúc người dân Tiên Nông một lòng một dạ đi theo Đảng, đánh đổ đế quốc, phong kiến và phát xít Nhật. Giữa năm 1945, Tỉnh bộ Việt Minh liên tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được thành lập. Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân yêu nước toàn tỉnh đoàn kết chống lại đế quốc, phong kiến và phát xít Nhật. Đầu tháng 6/1945, Uỷ ban Mặt trận Việt Minh phủ Anh Sơn phát đi bản tuyên bố vạch tội ác bọn phát xít Nhật, kêu gọi nhân dân toàn phủ đoàn kết dưới lá cờ Việt Minh, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, đánh đuổi phát xít Nhật và bọn Việt gian phản động, giải phóng đất nước, quê hương. Cũng trong thời gian này Phủ ủy Anh Sơn họp và ra quyết nghị chọn thôn Tiên Nông là địa điểm in ấn tài liệu bí mật của Đảng. Bởi nơi đây có phong trào hoạt động cách mạng của các tổ chức quần chúng mạnh. Phủ ủy đã giao cho đồng chí Hoàng Văn Cúc về vận động nhân dân giúp cho Phủ ủy tìm nơi đặt địa điểm in ấn. Hưởng ứng lời kêu gọi của Phủ ủy, ông Hoàng Văn Phương đã dành nhà họ Hoàng làm nơi đặt Tổ ấn loát in truyền đơn chỉ thị chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Tổ ấn loát do đồng chí Bùi Hữu Thư phụ trách. Suốt cả thời gian 3 tháng, về kinh phí ăn uống, sinh hoạt của Tổ đều do gia đình ông Hoàng Văn Cúc và ông Hoàng Văn Phương chu cấp. Bảo vệ, canh gác nơi ấn loát là các ông: Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Quý, Hoàng Văn Thận. Đến tháng 7/1945, tổ ấn loát tài liệu rút về huyện ủy Anh Sơn an toàn. Trong hoàn cảnh Nhật vừa hất cẳng Pháp, nạn đói khủng khiếp hoành hành do bọn phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay; thì sự giúp đỡ của gia đình ông Phương, ông Cúc như vậy thật là ý nghĩa[24] .


[24] . Xác nhận của ông Nguyễn Trung Lục.

Ngày 17/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa phủ Anh Sơn chỉ thị cho Uỷ ban khởi nghĩa các địa phương tổ chức lực lượng để hưởng ứng cuộc biểu tình lớn. Nhận được chỉ thị này, Uỷ ban khởi nghĩa các xã, thôn kiểm tra và đôn đốc các đoàn thể, các lực lượng chuẩn bị băng cờ, khẩu hiệu, giáo mác… Cũng đêm hôm đó, Uỷ ban Mặt trận Việt Minh các tổng, thôn đã triệu tập thành viên trong Mặt trận phụ trách các đoàn thể phổ biến bức thư của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Vào sáng ngày 18/8/1945, nhân dân các thôn Tiên Nông, Đồng Lạc, Đồng Long, Vĩnh Giang, Tràng Ná, Phượng Kỳ náo nức, rộn ràng tiếng chiêng, trống, mõ; từng đoàn người, đội ngũ chỉnh tề, tay cầm cờ, khẩu hiệu; đi đầu là các đội tự vệ đỏ vai mang giáo mác, gậy tầm vông tập trung tại đình Vĩnh Giang rồi kéo ra sân vận động Bạch Ngọc nhập với lực lượng ở Bạch Ngọc kéo về sân vận động Đô Lương. Tất cả các đoàn biểu tình trong toàn phủ Anh Sơn từ các ngả cùng kéo về đây. Đúng 8 giờ, cả sân vận động trở thành một biển người, cờ đỏ sao vàng, băng khẩu hiệu san sát. Từ trên lễ đài, đồng chí Phạm Như Cương, đại diện Mặt trận Việt Minh dõng dạc đọc lời kêu gọi:
“Thưa đồng bào! Thưa các bạn! Đất nước đã vào giờ lịch sử quyết định, ngày giải phóng đã đến. Chúng ta hãy nhất tề đứng dậy, bẻ gãy xích xiềng nô lệ”.
Sau cuộc mít tinh, từng đoàn người đi qua các thôn ở trung tâm Phủ lỵ thị uy trước nha phủ và đồn binh của Nhật. Bọn Nhật vô cớ bắt đồng chí Phạm Như Cương về đồn. Đoàn biểu tình đã tiến về vây chặt lấy đồn giặc, đòi thả ngay đồng chí Phạm Như Cương. Trước khí thế hừng hực của đoàn biểu tình, bọn Nhật buộc phải thả đồng chí Phạm Như Cương. Ngày 22/8/1945, Uỷ ban Mặt trận Việt Minh phủ Anh Sơn ra lệnh cho các đội Tự vệ đỏ và nhân dân toàn phủ chuẩn bị lực lượng để giải phóng đồn Đô Lương. Ngay từ sáng hôm sau, từng đoàn người từ các xã, các tổng, toàn phủ từ dưới xuôi lên, từ miền trên đổ về tham gia khởi nghĩa. Đoàn người từ các tổng Yên Lăng, Đô Lương, Lãng Điền, Đặng Sơn, Bạch Hà, Thuần Trung hàng nghìn người đội ngũ chỉnh tề, tay cầm cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ; đi đầu là các lực lượng Tự vệ đỏ vai mang mã tấu, đại đao, giáo mác, rầm rập kéo về Phủ lỵ tham gia tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong giờ phút trọng thể này, đồng chí Nguyễn Trung Lục, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa phủ Anh Sơn bắn ba phát súng chỉ thiên và hô lớn:
“Hỡi sỹ quan, binh lính Nhật Bản! Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng đồng minh, tại đây các người phải hạ vũ khí đầu hàng Việt Minh…”.
Người phiên dịch nói lại với tên chỉ huy lính Nhật. Tên sĩ quan chấp nhận, hạ lệnh cho binh lính Nhật hạ vũ khí đầu hàng. Tiếp đó, đồng chí Nguyễn Trung Lục thay mặt Uỷ ban khởi nghĩa công bố 10 chính sách của Việt Minh trước nhân dân toàn phủ. Khi mọi người đã tập trung đông đủ trước Phủ lỵ Anh Sơn, từ trên cổng phủ đường, đồng chí Nguyễn Trung Lục, Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa phủ Anh Sơn dõng dạc đọc bản tuyên bố:
“Thưa đồng bào yêu quý! Từ giờ phút này, quê hương ta hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, chính quyền các cấp từ trung ương đến làng xóm nay thuộc về nhân dân...”.
Đồng chí Nguyễn Trung Lục hạ lệnh cho tên tri phủ giao nộp ấn tín và sổ sách của phủ đường cho chính quyền cách mạng. Sau đó, đoàn biểu tình lại rầm rộ kéo về các thôn trong tiếng trống và tiếng hô khẩu hiệu rền vang của mọi người. Từ đây chính quyền thực sự về tay nhân dân. Uỷ ban khởi nghĩa các thôn Tiên Nông, giáp Đồng Lạc tuyên bố thành lập chính quyền mới. Uỷ ban hành chính lâm thời thôn Tiên Nông do ông Tăng Văn Độ được giao làm Chủ tịch và các thành viên trong ủy ban gồm: ông Phan Sỹ Bản, Thái Đình Thiềng, Trương Văn Hội, Hoàng Văn Quý. Ông Hoàng Văn phương được giao làm Nông hội.
Sáng ngày 30/8/1945, thực hiện của Ủy ban hành chính lâm thời, Đội tự vệ đỏ thôn Tiên Nông cùng trai gái, trẻ già nô nức kéo đến nhà Lý trưởng Hoàng Văn Cúc để thu ấn tín. Ông Hoàng Văn Cúc đã đưa yên thư, bàn ghế  ra đặt giữa sân (đã được quyét dọn sạch sẽ phong quang); đem ấn tín đặt vào khay có trải vải đỏ đặt lên yên thư. Ông Lê Đăng Cởn đọc lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, thu ấn tín, tuyên bố chính quyền về tay nhân dân. 
  Tháng 12/1945, các thôn Tiên Nông, Đồng Lạc, Đồng Long, Yên Lương, Mỹ Hòa, Ngọc Mỹ, Trung Hậu, Đồng Xuân, Tràng Ná, Phượng Kỳ được thành lập một xã lớn. Ban thành lập xã lớn gồm: ông Lê Biểu, ông Nguyễn Trọng Phượng và ông Hoàng Văn Cúc, với tên xã là “Yên Sơn”. Huyện ủy Anh Sơn đã thành lập Chi bộ Xung Phong để lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân xã Yên Sơn.
Sau khi sáp nhập, đồng chí Trần Kim D­ương đ­ược bầu làm Chủ tịch UBND xã Yên Sơn (sau là UBHC); đồng chí Nguyễn Trọng Phượng làm Phó Chủ tịch UBND; đồng chí Trần Kim Trung làm Bí th­ư Chi bộ Xung Phong. Trụ sở làm việc của Chi bộ, chính quyền, đoàn thể lúc đầu ở nhà đồng chí Trần Kim Trung. Sau đó chính quyền đã cho mua một ngôi nhà 3 gian dựng lên ở vùng đất gần ngã ba Giang Sơn hiện nay để làm trụ sở.

Chương ba

XÃ THANH SƠN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG HÒA (1945 – 1954)

I. XÃ THANH SƠN CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (8/1945-12/1946)
 
Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945 của nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết muôn người như một quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng của nhân dân. Trong thời kỳ này, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nhân dân xã Thanh Sơn đã tích cực thực hiện ba nhiệm vụ cấp bách trước mắt là “diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.
Sau ngày bầu cử thành công (6/1/1946), Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I họp phiên đầu tiên thành lập Chính phủ, Cụ Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước.
Tiếp theo việc bầu cử Quốc hội, theo quyết định của trên, ngày 24/2/1946, cử tri cả nước tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân 2 cấp (cấp xã và cấp tỉnh). Tháng 3/1946, xã Yên Sơn được ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Nghệ An, do Chủ tịch tỉnh Lê Viết Lượng ký, đổi tên thành xã Thanh Sơn. Sau khi thành lập xã, đồng chí Trần Kim Dương được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Lê Đăng Biểu làm Phó Chủ tịch, đồng chí Trần Kim Trung làm Bí thư chi bộ xã, đồng chí Võ Văn Thân làm Phó Bí thư chi bộ xã. Đồng chí Hoàng Văn Cúc làm Phòng thủ của xã Thanh Sơn, năm 1948 được điều lên làm Hội Liên Việt[25] huyện Anh Sơn phụ trách tôn giáo vận, sau làm Dân chủ đảng cho đến giảm tô (1953) thì nghỉ.

[25] . Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) thành lập ngày 29/5/1946.


Cuối tháng 9/1946, Chi bộ Xung Phong tổ chức đại hội lần thứ I tại nhà ông Đặng Xuân Hoàn ở chòm Ngọc Mỹ, 27/32 đảng viên đã về dự. Đồng chí Trần Kim Trung được bầu tiếp tục làm Bí th­ư Chi bộ. 

1. Diệt giặc đói

Cũng như tình hình chung của cả nước, sau khi giành được độc lập, đời sống nhân dân Tiên Nông còn gặp rất nhiều khó khăn. Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại rất nặng nề. Ruộng đất phần lớn vẫn nằm trong tay địa chủ và tầng lớp trung lưu khá giả. Chúng thực hiện phát canh thu tô, người nông dân đa phần cày ruộng rẽ, cày thuê, cuốc mướn… Các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long cũng như nông dân toàn xã Thanh Sơn phải chuyên đi cày ruộng rẽ của địa chủ, thu nhập hàng năm rất thấp, thiếu đói triền miên; đặc biệt, nạn đói khủng khiếp năm 1945 không những cướp đi sinh mạng của hàng chục người dân mà còn để lại hậu quả hết sức nặng nề. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn vất vả, thiếu thốn nhưng nông dân vẫn một lòng theo Đảng, trung thành với sự nghiệp cách mạng, hưởng ứng phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm làm ra nhiều thóc, gạo, ngô, khoai, sắn vừa để có lương thực trang trải trong gia đình vừa làm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến để bộ đội ăn no đánh thắng.
Nhờ các biện pháp nêu trên, kinh tế phát triển ngày càng rõ nét, đời sống người nông dân được cải thiện. Phong trào thi đua yêu nước diễn ra hết sức sôi nổi, mọi giới, mọi ngành đều hưởng ứng tích cực trong “Tuần lễ vàng”. Một số gia đình khá giả và nhiều chị em phụ nữ đã tự nguyện hiến tặng khuyên vàng, trằm bạc đóng góp vào quỹ vàng của cả nước; nhân dân nơi đây còn tham gia hưởng ứng phong trào “Hũ gạo tiết kiệm” do chị em phụ nữ trong chòm xóm đảm nhận, động viên mọi gia đình tự nguyện thực hiện. Mỗi bữa ăn, các gia đình bỏ vào hũ gạo một nắm. Mỗi tháng 1 lần, chị em tổ chức đến từng gia đình để thu, số lượng toàn bộ được khoảng 300 kg nạp về Ban vận động của xã, gửi lên trên để ủng hộ bộ đội. Trong những năm 1945 - 1946, các tổ chức đoàn thể các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long đã vận động các tầng lớp nhân dân trong xã đóng góp được 10 tấn thóc gạo cho Nhà nước.

2. Diệt giặc dốt

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ tịch, song song với phong trào diệt giặc đói, nhân dân xã Thanh Sơn tích cực tham phong trào diệt giặc dốt. Cuộc vận động bài trừ giặc dốt được phát động bằng mọi biện pháp, vừa tự giác, vừa có tính chất bắt buộc. Ty bình dân học vụ tỉnh Nghệ An chủ trương vừa duy trì trường Tiểu học dưới thời Pháp thuộc và các lớp tự do, quy định một lớp tự học gồm 20 người, đồng thời khẩn trương phát động phong trào xoá nạn mù chữ và kêu gọi toàn dân tích cực đi học bình dân học vụ. Với phương châm “người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ”, chỉ trong một thời gian ngắn, các lớp bình dân học vụ mở ra khắp nơi. Các ngôi đình làng, các nhà thờ họ, nhà dân … nơi nào có điều kiện là nơi đó có lớp học. Tinh thần học tập hết sức khẩn trương. Mọi người vừa sản xuất vừa học tập, tranh thủ mọi thời gian, bất kẻ trưa tối hễ rảnh rỗi là đến lớp. Về giáo viên, theo chủ trương của Ban bình dân học vụ thì chủ yếu là do thanh niên trong các thôn đã biết chữ từ trước tham gia, tự nguyện đem hết nhiệt tình dạy cho những người chưa biết chữ.  Để cổ vũ tinh thần học tập và quyết tâm xoá nạn mù chữ, nhiều hình thức tuyên truyền, động viên khích lệ như áp phích, khẩu hiệu với nội dung phong phú: “Đi học là yêu nước - yêu nước phải đi học”, “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên đạn bắn vào quân thù, thêm một viên gạch xây đài độc lập của nước nhà” được treo lên các ngả đường, cổng chợ, đình làng, ngõ xóm.
Ngày 2/11/1945, Tỉnh uỷ Nghệ An đã tiến hành hội nghị xác định rõ: “Trong năm vận động nhân dân từ 18 tuổi trở lên đều phải đi học và đều biết đọc, biết viết. Đối với đảng viên sau 3 tháng không biết chữ sẽ bị kỷ luật”. Ngoài ra, Ban bình dân học vụ còn có biện pháp tổ chức kiểm tra hỏi chữ ở các cổng chợ vào những phiên chính, ai đọc được mới cho vào chợ, ai không đọc được thì động viên đứng lại đọc được mấy chữ cái mới được vào. Với những biện pháp tích cực, linh hoạt trên đây, phong trào diệt giặc dốt ngày càng trở nên sôi nổi và hào hứng, các lớp học ở các thôn ngày càng đông, kết quả học tập từng bước lên cao. Vì vậy từ chỗ 25% số người biết chữ, đến năm 1947 đã có 70 % số người được thanh toán mù chữ. Tại các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Long, Đồng Lạc việc học chữ Quốc ngữ đã bắt đầu phát triển mạnh; học trò lớp đầu tiên có: Đinh Thị Dung, Phạm Thị Thảnh, Trần Thị Đán ...; lớp thứ 2 có: Hoàng Văn Đồng, Nguyễn Văn Thành, Hoàng Thị Thái, Tăng Thị Tuyết...; lớp thứ 3 có: Tăng Văn Phiên, Nguyễn Bá Tiết ... giáo viên các lớp này là thầy Lê Đăng Cởn, thầy Hồng người Nam Đàn, thầy Hàm người Rạng. Năm 1954, huyện Anh Sơn mở các lớp bồi dưỡng văn hóa tại Hồng Sơn; ban đầu học tại nhà bà Thái Thị Nậy[25], sau chuyển sang học ở nhà ông Hoàng Văn Cúc,  Hoàng Văn Quý, bà Đinh Thị Dung; xã Hồng Sơn có bà Đinh Thị Dung là học viên; thầy dạy là thầy San, thầy Hòa (Hòa Tiệm) người thôn Diên Tiên (nay thuộc xã Lưu Sơn).

[25].  Bà Thái Thị Nậy là đảng viên từ xã Thịnh Sơn vào cư trú ở gíáp Đồng Lạc (nay là xóm 5).

2. Diệt giặc ngoại xâm (xem mục II dưới đây)
   
II. NHÂN DÂN HỒNG SƠN CÙNG CẢ NƯỚC BƯỚC VÀO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ( 1946 – 1954)

Thực hiện âm mưu lập lại ách thống trị ở Đông Dương, thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn để phá hoại Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, trắng trợn đòi chúng ta hạ vũ khí đầu hàng.  Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi Nhân dân các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long coi đó là tiếng gọi thiêng liêng của non sông đất nước, là mệnh lệnh cách mạng tiến công giục giã và soi đường chỉ lối cho mọi tầng lớp nhân dân đứng dậy cứu nước. Tiếng súng của Thủ đô Hà Nội ngày 19/12/1946 trở thành lệnh kháng chiến toàn quốc. Hoà trong khí thế hào hùng, lòng yêu nước dâng cao, sục sôi tinh thần cách mạng, xã Thanh Sơn đã tổ chức triển khai lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương Đảng của Tỉnh, của Huyện. Phương châm cuộc kháng chiến là: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”. Bao nhiêu tài liệu hướng dẫn, những chỉ thị cấp trên gửi về đều được quán triệt từ trong Đảng đến chính quyền, mặt trận và các đoàn thể rồi đến tận người dân để nắm vững về phương châm và hành động. Cứ mỗi chòm xóm có từ 1- 2 điểm trung tâm, dùng cây cao làm chòi phát thanh. Có tổ chức đội phổ biến các tài liệu tuyên truyền của Việt Minh; tin cập nhật hàng ngày về sản xuất và chiến đấu thắng lợi đến với mọi người dân để họ phấn khởi, hăng hái thi đua lao động sản xuất và đóng góp cho cuộc kháng chiến. Từ đó, khắp các chòm xóm trên địa bàn xã đâu đâu cũng bừng bừng khí thế cách mạng.
Mọi mặt công tác kháng chiến được tiếp thu và đẩy mạnh, thực hiện khẩn trương hơn bao giờ hết. Uỷ ban hành chính huyện, Uỷ ban hành chính xã được đổi tên cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của thời chiến là Uỷ ban kháng chiến hành chính. Trong các chòm xóm luôn đề cao tinh thần cảnh giác, công tác bảo mật phòng gian được tăng cường. Chính quyền quy định thấy người lạ mặt tình nghi phải báo ngay với công an, nếu nghỉ lại qua đêm cũng phải báo cáo với trưởng thôn và xuất trình giấy tờ. Mỗi chòm xóm có một cái kẻng dùng làm hiệu lệnh sinh hoạt hội họp. Quy định giờ giấc ban đêm đi lại ngoài 23 giờ phải có đèn sáng. Tiếng kẻng dùng để hội họp, dùng khi có lệnh báo động, chuyện bất thường xẩy ra trong thôn xóm. Việc giữ gìn trật tự trị an các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả.  Ở mặt trận, quân đội ta ngày càng hùng mạnh, chiến đấu quả cảm và giành được nhiều thắng lợi. Ở hậu phương, nhân dân thi đua đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến. Lòng yêu nước, chí căm thù giặc của nhân dân Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long càng được nhân lên gấp bội khi nghe những thông tin về sự chiến đấu hy sinh của bộ đội ta ở chiến trường. Lớp lớp thanh niên hăng hái đăng ký khám tuyển để được lên đường tòng quân nhập ngũ, tham gia cuộc trường chinh vệ quốc; anh Lê Văn Hán chòm Trần Phú người nhỏ, sợ không trúng tuyển đã mượn 2 quan tiền bỏ vào túi cho đủ cân và anh đã thực hiện được ước mơ. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ[26], chỉ trong một thời gian ngắn, ở Tiên Nông đã có 18 thanh niên tình nguyện lên đường.

[26] . Trích lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 


TT
Họ và tên
Xóm
TT
Họ và tên
Xóm
1
Hồ Đình Danh
Minh Sơn
11
Thái Bá Tính
Văn Sơn
2
Nguyễn Văn Tiến
Minh Sơn
12
Nguyễn Xuân Phiếu
Thái Sơn
3
Vương Đình Lục
Minh Sơn
13
Hoàng VănKhang
Thái Sơn
4
Nguyễn Văn Công
Minh Sơn
14
Hoàng Văn Hồng
Thái Sơn
5
Thái Đình Hồng
Phú Sơn
15
Trần Tự Tuấn
Trung Sơn
6
Lê Văn Hải
Phú Sơn
16
Bùi Đăng Nguyên
Long Sơn
7
Lê Văn Bộ
Phú Sơn
17
Nguyễn Văn Đèo
Thọ Sơn
8
Lê Văn Hán
Văn Sơn
18
Nguyễn Xuân Mân      Thọ Sơn
(sau khi Pháp trả lính khố xanh, ông gia nhập đoàn quân Nam tiến)
9
Nguyễn Văn Thao
Văn Sơn

10
Nguyễn Bá Tý
Văn Sơn


Lúc này, tin vui chiến thắng ở tiền phương liên tiếp dội về làm nức lòng những người hậu phương. Đại đội dân quân tự vệ thường trực tác chiến của xã được tăng cường, củng cố và đẩy mạnh hoạt động, ý thức tổ chức kỷ luật được nâng cao, nề nếp quân sự ngày càng quy củ, chuyên nghiệp hơn. Cán bộ, chiến sỹ thường xuyên được học tập chính trị, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, không ngại gian khổ hy sinh nên chất lượng về mọi mặt được nâng cao. Đoàn quân hùng dũng uy nghiêm này là niềm tự hào của xã, đại đội dân quân tự vệ thường xuyên được ăn ở tập trung, sôi nổi hăng say học tập, rèn luyện. Các đình làng Tiên Nông, Mỹ Hòa, Trang Ná là nơi làm doanh trại tập trung của Ban chỉ huy quân sự thường trực. Ngày học tập, sản xuất (ruộng công điền, công thổ) để tự túc lương thực; đêm canh gác, tuần tiễu bảo mật phòng gian, bảo vệ chính quyền và đảm bảo an ninh cho nhân dân. Hàng tuần, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Mẹ chiến sỹ lại đem số gạo tiết kiệm thu gom được ở các xóm đem về nạp cho Ban chỉ huy quân sự đơn vị thường trực để nuôi quân. Về thực phẩm thì chỉ dựa một phần vào dân còn phần lớn là đơn vị tự túc được (như cua đồng, cá, tôm tép, rau màu trên các vùng ruộng đồng lân cận hoặc đánh bắt tôm, cá tự nhiên ở các khe suối trên địa bàn xã). Tuy buổi đầu gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng tinh thần chiến sỹ rất háo hức, sôi nổi phấn chấn.
Bên cạnh đơn vị thường trực, mỗi xóm còn có một trung đội dân quân du kích từ 20 - 30 người thường xuyên trực chiến để bảo vệ dân cư, bảo vệ làng mạc trên địa bàn. Ban ngày các trung đội vẫn tham gia sản xuất, ban đêm tổ chức canh gác và thanh thủ tập luyện, đồng thời duy trì chế độ liên lạc chặt chẽ và thực hiện tốt các chủ trương, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Thỉnh thoảng, Ban quân sự xã lại tổ chức diễu hành gồm 1 đại đội dân quân tự vệ thường trực và 7 trung đội du kích các chòm xóm với tổng quân số có trên 200 người, ăn mặc gọn gàng, nghiêm chỉnh, dù là quần nâu áo vải nhưng rất có kỷ luật, đảm bảo tính quân sự để biểu dương lực lượng, trấn áp bọn phản động. Những lần hành quân, các đội tự vệ giương cao ngọn cờ cách mạng Việt Minh, những câu hò được cất lên theo bước quân hành:
Em ngóng chi đó em ngó chi đây,
Chồng em chưa ra nhập ngũ có mô đây mà nhìn.
Trong những năm đầu kháng chiến còn có phong trào thanh niên xung phong vào các xưởng quân giới để chế tạo vũ khí, súng đạn, bom mìn, lựu đạn. Họ không ngại gian khổ, nguy hiểm chỉ biết làm sao chế tạo được thật nhiều vũ khí để kịp thời chuyển ra tiền tuyến cho bộ đội đánh giặc. Nhân dân Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long luôn đùm bọc che chở, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, đơn vị về đóng tại địa phương.
 Trong thời điểm này, Xưởng đúc vũ khí (Xưởng Đội Quyên) từ Quảng Trị chuyển về lại mượn nhà thờ họ Hoàng Văn và vườn nhà các ông: Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Cúc, Hoàng Văn Quý, Hoàng Văn Túy; ngoài vườn thì sản xuất, trong nhà thờ thì lắp ráp và chứa vũ khí đạn dược. Xưởng do ông Tôn Trường Sinh làm Xưởng trưởng, xưởng chuyên tập trung sản xuất thuốc nổ và đúc lựu đạn. Sau 3 năm đến năm 1949 xưởng chuyển ra Thanh Hóa. Năm 1947, một đơn vị bộ đội địa phương, do ông Kính người ở Đặng Sơn, Đô Lương làm chỉ huy đơn vị về đóng quân tại xóm Đồng Lạc. Lấy danh nghĩa là đơn vị làm kinh tế. Nhưng thực chất là chuẩn bị cơ sở cho việc làm kho cất dấu vũ khí cho quân đội. Vì nơi đây có dãy lèn đá cao và nhiều hang động rất an toàn và bí mật. Thủ trưởng của đơn vị này (ông Kính) được gia đình bà Thái Thị Nậy đùm bọc, che chở ở cùng gia đình trong suốt thời gian ở đây.
Sau Đại hội Đảng bộ huyện Anh Sơn tháng 12/1946, không khí khẩn trương nhằm củng cố quân thường trực, tăng cường trang bị vũ khí, gấp rút chuẩn bị mọi lực lượng, sẵn sàng tham gia kháng chiến khi có lệnh trở nên sôi sục trong toàn xã. Lực lượng công an có nhiệm vụ phân hoá, xử lý bọn phản động, đề phòng hiện tượng làm nội ứng trong trường hợp Pháp đổ bộ. Toàn xã Thanh Sơn phát động phong trào tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phong trào diệt dốt, xây dựng nếp sống văn hoá, đời sống mới. Mỗi cán bộ cốt cán được giao nhiệm vụ phải nêu cao tinh thần và gương hy sinh chiến đấu cao cả trước quần chúng nhân dân. Công tác quốc phòng, quân sự được tăng cường, lực lượng dân quân nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tổ chức rèn cán chỉnh quân, rèn sẵn vũ khí như đao, kiếm, dao găm, lưỡi lê... Kết quả, có hàng trăm bàn chông, cây đao, cây kiếm, dao găm và lưỡi lê được chuẩn bị. Các phong trào luyện quân, diễn tập được tổ chức rầm rộ, quân ngũ kỷ cương. Mỗi tháng xã Thanh Sơn tổ chức một lần tập trung thi các môn: Ném lựu đạn từ 20 - 30 m. Bắn nỏ 15 - 20 m. Nhảy cao, nhảy dài, vượt chướng ngại vật. Phục kích đánh vào đồn, lăn lê, bò toài, xung phong chém bù nhìn.
Cứ mỗi lượt thi 9 người bằng quân số một tiểu đội, triển khai cho đến hết 270 người. Sau khi hoàn thành các môn thi đều có tổng kết, biểu dương thành tích đơn vị, cá nhân. Tiếp đó là duyệt binh, diễu hành biểu dương lực lượng hùng hậu để bảo vệ nhân dân và chính quyền Việt Minh. Bên cạnh phong trào luyện quân rầm rộ, toàn xã còn triển khai công tác rào làng chiến đấu (noi gương làng chiến đấu Cự Nẫm - Quảng Bình). Theo chỉ thị của cấp trên, tất cả các xóm đã thực hiện việc rào làng, hoàn thành trước thời gian quy định. Mỗi chòm xóm chỉ có 2 cửa chính ra vào và 2 - 3 cửa phụ. Có lập điếm canh, trạm gác ngày và đêm do trung đội dân quân du kích ở các xóm đảm nhiệm. Việc canh gác ở xã do quân tự vệ thường trực phụ trách, thỉnh thoảng lại về các cơ sở kiểm tra. Đồng thời với việc rào làng, xã còn tiến hành đào hào giao thông liên lạc, hầm bí mật, hầm cóc, hầm chữ chi, đường hầm chằng chịt ngang dọc lưu thông trong xóm để dễ dàng di chuyển không chỉ trong xóm mà còn có thể di chuyển đến các xóm cận kề khi có chiến sự xẩy ra . Bên cạnh đó xã còn tổ chức, chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chòm xóm, tăng cường bảo mật phòng gian để giữ yên giấc ngủ cho nhân dân trong thời chiến, bảo vệ Đảng và sự an toàn cho chính quyền cách mạng.
Tiếp lệnh Quân uỷ Trung ương và Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh Nghệ An về khẩn trương phá Thị xã Vinh - Bến Thuỷ, trong 12 ngày đêm, dân quân và nhân dân Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long đã tham gia cùng nhân dân toàn huyện thực hiện phá và xoá xong một số nhà công sở, nhà bằng của Pháp, các nhà cao tầng của tư sản, tư bản tư nhân giàu có trong thị xã. Cùng với việc tiêu thổ kháng chiến, chính quyền cách mạng còn lãnh đạo nhân dân thực hiện công tác bố phòng, phòng không, đào thêm hầm trú ẩn để bảo vệ nhân dân, cán bộ cơ quan khi địch mở rộng đánh phá ra vùng tự do.
Vào giữa năm 1947, Đảng bộ huyện Anh Sơn tổ chức Đại hội lần thứ 2 để đề ra nhiệm vụ trong tình hình mới và quán triệt bức thư của Hồ Chủ tịch “Gửi các đồng chí Trung bộ”. Sau Đại hội Đảng bộ huyện Anh Sơn quán triệt và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cấp bách như: chuẩn bị mọi lực lượng để trường kỳ kháng chiến, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến; củng cố tổ chức Đảng, chính quyền; kiện toàn Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc; xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ thường trực và du kích ở các chòm xóm; xây dựng làng chiến đấu; đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tiếp tục thực hiện 3 nhiệm vụ: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Ở hậu phương xuất phát từ các phong trào thi đua yêu nước đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu và lần lượt trở thành nhưng đảng viên tiên phong của Đảng như các đồng chí: Tăng Văn Yêng, Nguyễn Cảnh Nhưỡng, Nguyễn Cảnh Khiêm, Hoàng Văn Thận, Nguyễn Xuân  Hợi, Đặng Thị Từ, Bùi Trọng Nghiêm[29] … là những đảng viên được kết nạp vào Đảng thời kỳ (1946-1948).

[29]. Tăng Văn Yêng (xóm 8), Nguyễn Cảnh Nhưỡng (xóm 2), Nguyễn Cảnh Khiêm (xóm 2), Hoàng Văn Thận (xóm2, sau chuyển về Giang Sơn), Nguyễn Xuân Hợi (xóm 8), Đặng Thị Từ (xóm 8), Bùi trọng Nghiêm (xóm 4).

Cuối năm 1947, đồng chí Trần Kim Dương đ­ược Trung ư­ơng điều động đi nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Nguyễn Trọng Phư­ợng đ­ược bổ nhiệm làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính, đồng chí Lê Đăng Biểu làm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính xã Thanh Sơn.
Tháng 4/1948, Chi bộ Xung Phong tổ chức đại hội lần thứ II tại Trại Cày (Lê Mao). Số l­ượng đảng viên đ­ược triệu tập là 117 ngư­ời, tăng 85 người so với đại hội lần thứ nhất. Đại hội đã đánh giá những nỗ lực cố gắng vư­ợt qua thử thách khó khăn sau Cách mạng tháng Tám của toàn Đảng, toàn dân Thanh Sơn. Thể hiện trong việc phấn đấu làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Đặc biệt, Thanh Sơn đã thực hiện tốt cả 3 nhiệm vụ: diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Đại hội đã bầu ra  Ban Chấp hành Chi bộ mới. Đồng chí Hồ Vĩnh Toại được bầu làm Bí thư­; đồng chí Nguyễn Trọng Phư­ợng làm Phó Bí th­ư - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính; đồng chí Lê Đăng Biểu làm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính.
Nhằm đẩy mạnh mọi mặt của cuộc kháng chiến chống giặc Pháp lên một bước mới, tháng 5/1948, theo sáng kiến của Hồ Chủ tịch, Trung ương phát động phong trào thi đua ái quốc. Xã Thanh Sơn lại dấy lên một khí thế thi đua sôi nổi ở các xóm làng. Mỗi xóm có một chòi phát thanh cao. Tổ thông tin sử dụng loa kèn bằng sắt tây, vào các buổi trưa, buổi tối tổ chức đọc tài liệu, đọc báo, thông báo, tin tức chiến thắng ở các chiến trường và thông báo các chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Toàn chòm thành lập một đội tuồng cổ, một đội văn nghệ, thỉnh thoảng tổ chức một tối liên hoan văn nghệ. Nhân dân được thưởng thức những bài thơ ca, hò, vè,… Các tiết mục hầu hết tự biên tự diễn, nội dung mang tính giáo dục, vận động tư tưởng lành mạnh nhưng không kém phần hấp dẫn, thu hút khá đông khán giả. Phong trào ca hát đã làm cho không khí thôn xóm vui tươi, rộn rã hẳn lên.
Cùng với việc xây dựng hậu phương lớn mạnh, nhân dân Thanh Sơn còn hăng hái hưởng ứng cuộc vận động ủng hộ kháng chiến của Chính phủ, tích cực chi viện sức người sức của với tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ cho tiền tuyến, góp phần vào thắng lợi của quân và dân ta trên mặt trận quân sự. Nhân dân các làng đã tích cực thực hiện  phong trào “Mùa đông chiến sĩ”, “Hũ gạo nuôi quân”, “Lúa khao quân” của Hồ Chủ tịch, tham gia hội giúp binh sĩ tị nạn. Qua các đợt phát động đó nhân dân đã quyên góp cho Nhà nước 30 tạ thóc và nhiều quần áo, chăn màn, thuốc men... gửi ra chiến trường để phục vụ cho bộ đội. Ngoài ra, qua các phong trào “Đảm phụ quốc phòng” (1949), “ Ủng hộ bộ đội địa phương” và “Công trái quốc gia” bằng thóc, hiến điền…, tinh thần yêu nước của nhân dân một lần nữa được phát huy cao độ.
Công tác vệ sinh phòng bệnh cũng được đặc biệt quan tâm trở thành chiến dịch rộng rãi. Mỗi xóm có một vệ sinh viên hoạt động hình thức bán chuyên trách. Mục tiêu của chiến dịch là xóa các bệnh ghẻ lở, đặc biệt là bệnh sốt rét, là những bệnh phổ biến lúc bấy giờ đã làm ảnh hưởng trầm trọng sức khỏe, giảm sức lao động và chiến đấu của dân. Một mục tiêu phấn đấu của chiến dịch nữa là tiêu diệt ruồi muỗi, chấy rận, rệp, vận động thực hiện ăn chín uống sôi, ngủ màn, đắp hố tiêu, hố tiểu, đưa chuồng súc vật ra xa nhà, súc vật không nhốt cùng nhà với người, đào giếng để lấy nước sạch. Những việc đó hoàn toàn mới lạ với dân, thực sự là một cuộc cách mạng mới, có tổ chức vận động tốt mới thực hiện được. Bởi vì nhà cửa phổ biến hồi đó là nhà tranh, nửa là người ở, nửa là chuồng lợn, trâu, bò, gà vịt… Ruồi muỗi nhiều như trấu vãi.
Để đảm bảo lương thực tại chỗ phục vụ đời sống nhân dân và huy động cho chiến trường, phong trào tăng gia sản xuất lại được đẩy mạnh. Đây là nhiệm vụ chính của Hội Nông dân cứu quốc. Đoàn thanh niên cứu quốc là lực lượng xung kích trong mọi nhiệm vụ. Ngoài việc vỡ hoang tận dụng đất đai để trồng trỉa, nhân dân còn quan tâm việc khai thác các nguồn phân như phân xanh, phân chuồng và cả phân dơi ở các lèn nữa để bón ruộng, nhằm tăng năng suất lúa và hoa màu. Công tác thủy lợi cũng được đẩy mạnh. Những đợt huy động nhân lực lên công trường làm thủy lợi, chòm lại xuất quỹ kết hợp vận động nhân dân và các tổ chức đoàn thể giúp đỡ để tổ chức hậu cần cơm nước tập thể. Nhờ những việc làm trên, đến cuối năm 1948, khâu lương thực coi như đã được giải quyết kể cả thời kỳ giáp hạt ngày ba tháng tám.
Cuối năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện lại có chủ trương thanh toán nạn mù chữ trong toàn huyện. Xã Thanh Sơn lại tổ chức các lớp xóa mù chữ ở các chòm xóm. Những người mù chữ ban ngày đi làm còn ban đêm tới lớp để học. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhờ các lớp xóa mù nên tỷ lệ người mù chữ trong các chòm xóm được giảm xuống.
An ninh thôn xóm cũng được giữ vững. Lực lượng công an các chòm xóm được tăng cường. Những vụ trộm cắp, buôn bán hàng lậu, nấu rượu lậu cùng các hành vi có tính chất chống đối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương đều được phát giác và ngăn chặn kịp thời. Những vụ xích mích, bất đồng trong nhân dân đều được hòa giải thỏa đáng. Ban tư pháp chòm cùng các đoàn thể chăm lo giải quyết công bằng và kịp thời các vụ việc. Nhờ vậy trong chòm xóm mọi người đoàn kết vui vẻ, thông cảm lẫn nhau. Người người chung sống đầm ấm trong tình hữu ái giai cấp. Ai có khó khăn gì đều được tập thể và mọi người giúp đỡ. Tuy vậy, một số phần tử xấu, con cháu nhà giàu và bọn cường hào trước đây đã tụ tập hoạt động dưới hình thức gọi là dân chủ Đảng, lợi dụng chính sách đại đoàn kết của Đảng và Mặt trận để chống phá cách mạng. Chúng tuyên truyền xuyên tạc nói xấu chủ trương chính sách của Đảng ta, của cách mạng. Nhưng dưới áp lực của chính quyền cách mạng và sự giác ngộ của quần chúng, nên các hoạt động của tổ chức này đã không đạt được mục đích. Hàng ngũ của chúng dần dần bị phân hóa. Tồn tại được một thời gian thì tổ chức này đã tự giải tán và tan rã.
Lúc này, trên chiến trường, tình hình có nhiều diễn biến phức tạp. Sau những thất bại nặng nề ở chiến dịch Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào thực dân Pháp càng điên cuồng đánh phá ác liệt hơn. Trung ương tiếp tục phát động chiến dịch với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Từ tháng 8/1949 đến 1950, Tỉnh đoàn Thanh niên Nghệ An phát động phong trào “Đại hội tòng quân”. Các làng thuộc xã Thanh Sơn đã có hàng chục thanh niên lên đường tòng quân nhập ngũ và hàng trăm dân công làm nhiệm vụ hoả tuyến.
Để yên lòng người ra đi, ở quê nhà bà con tương trợ nhau trong sản xuất, thành lập các tổ đổi công, thực hiện cuộc vận động giảm tô, giảm tức và xoá cho vay nặng lãi. Nhân dân còn tự nguyện góp tiền, góp gạo để nuôi dân quân tự vệ, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương. Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội mẹ chiến sỹ còn tổ chức quyên góp tiền, thuốc men, nước mắm, vận động đan bồ cho dân công phục vụ hoả tuyến. Kết quả, chỉ trong 5 ngày, nhân dân Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long đã ủng hộ được hàng trăm đồng tài chính, quan tiền công trái quốc gia và trên 500 kg gạo cho dân công. Ngày lên đường của bộ đội, dân công, các buổi tiễn đưa được tổ chức trọng thể. Các mẹ, các chị trong Hội cứu quốc, dẫu chỉ bằng tinh thần và bát nước chè xanh, điếu thuốc lào để đưa tiễn người ra mặt trận nhưng đã thể hiện tình cảm vô cùng ấm áp, thân thương, động viên người ra đi hoàn thành tốt nhiệm vụ. ở hậu phương nhân dân tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để có đủ lương thực cung cấp cho chiến trường “thực túc binh cường - ăn no đánh thắng”, góp phần tích cực vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Năm 1949 đồng chí Hồ Vĩnh Toại đ­ược điều động làm nhiệm vụ khác, đồng chí Thái Bá Phi - Huyện ủy viên Huyện ủy Anh Sơn đ­ược chỉ định về làm Bí thư Chi bộ Xung Phong.
Năm 1950, Xưởng sửa chữa ô tô vận tải chuyển đến đóng tại vùng đất vườn nhà bà Loan ở chòm Trần Phú; sau một thời gian một bộ phận được chuyến lên vùng đất vườn của ông Nguyễn Văn Xuyến ở chòm Đăng Lưu. Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay trên vùng đất này cũng đã phải chịu 2 lần ném bom của máy bay Pháp: Một lần bom phá và một lần bom NaPan vào khu vực Xưởng sửa chữa ô tô ở chòm Đăng Lưu. Nhưng không gây thiệt hại về người và tài sản, tất cả đều an toàn và tuyệt đối giữ bí mật. Nhân dân Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long không những góp công sức, tiền của phục vụ cho kháng chiến ở hậu phương, nhiều người đã tình nguyện xung phong ra tiền tuyến, hàng chục người với hàng ngàn ngày công phục vụ dân công hỏa tuyến Tây Bắc, Điện Biên Phủ, Bình Trị Thiên và cả Trung, Thượng, Hạ Lào. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 9 người con của quê hương tại các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Long đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường, nhiều người được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến thắng và kỷ niệm chương, Huy hiệu chiến sỹ Điện Biên. Tháng 10/1950, địch thất bại nặng nề ở chiến dịch Biên giới, Việt Bắc. Không đủ sức thực hiện ý đồ chiếm đóng Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh nên chúng tập trung đánh phá bằng không quân đối với các vùng hậu phương hết sức ác liệt. Ở huyện Anh Sơn, chúng ném bom và bắn phá các nơi tập trung đông dân, các chợ, bến đò, đường giao thông. Điên cuồng hơn nữa, chúng còn đem máy bay “khu trục”, “bà già” giết hại trâu bò và nông dân đang sản xuất trên đồng ruộng. Chúng cho rằng: bắn chết 1 con trâu hoặc 1 con bò bằng giết chết 5 người nông dân, bắn chết 1 người nông dân bằng giết chết 3 người bộ đội, nên càng ngày chúng càng đánh phá với mức độ ác liệt, dã man hơn, đặc biệt là trong những năm 1951 - 1953. Nhưng chúng càng bắn phá thì lòng yêu nước, yêu quê hương và lòng căm thù giặc của nhân dân càng lên cao hơn. Ngoài tăng gia sản xuất, nhân dân còn tranh thủ đào thêm hầm, hào không những trong thôn xóm mà cả ở ngoài đồng ruộng, trên các tuyến đường giao thông để ẩn nấp, nguỵ trang cho người, trâu bò. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt đều tránh giờ cao điểm hoặc chuyển vào ban đêm, kể cả việc học tập của học sinh. Nhờ vậy mà hầu hết mọi người đều an toàn, các phong trào thi đua yêu nước vẫn được đẩy mạnh, lương thực vẫn được cung cấp đầy đủ cho mặt trận.
Vào giữa năm 1950, Đại hội Chi bộ Xung Phong lần thứ III đã đư­ợc tổ chức tại nhà thờ họ Hoàng (nhà đồng chí Hoàng Văn Phư­ơng ở chòm Trần Phú). Đại hội đã đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ trong thời gian qua và đề ra ph­ương hư­ớng, nhiệm vụ cho thời gian tới trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó về công tác phát triển đảng, tổng số đảng viên đến thời điểm này là 178 đồng chí, tăng 61 đồng chí so với nhiệm kỳ II và tăng 5 lần so với nhiệm kỳ I. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Cảnh Như­ợng làm Bí thư­ chi bộ, đồng chí Nguyễn Trọng Ph­ượng giữ chức vụ Phó Bí th­ư - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính, đồng chí Lê Đăng Biểu tiếp tục giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính.
Đầu năm 1951 diễn ra một sự kiện lịch sử trọng đại trong đời sống chính trị của dân tộc: Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951. Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên mấy nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam:
 1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn: Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất cần phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang (quân đội, dân quân, du kích) về mọi mặt, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận Liên Việt - Việt Minh); phát huy tinh thần yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc, triệt để giảm tô, giảm tức; tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Cao Miên và Lào. Củng cố tình thân thiện giữa nước ta và các nước bạn, giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Muốn làm tròn nhiệm vụ trên, cần phải có một Đảng hoạt động công khai, tổ chức phải phù hợp với tình hình thế giới và trong nước để lãnh đạo toàn dân kháng chiến đến thắng lợi.
2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam: Trong điều kiện lịch sử mới, Đại hội chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng cách mạng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể, để lãnh đạo cuộc kháng chiến từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, kế thừa truyền thống của Đảng Cộng sản Đông Dương .
Thực hiện Nghị quyết của TW Đảng, Chi bộ Xung Phong cũng công khai hoạt động và được đổi tên thành Chi bộ xã Thanh Sơn. Cũng thời gian này, do yêu cầu nhiệm vụ mới đồng chí Nguyễn Cảnh Nh­ượng - Bí th­ư Chi bộ và đồng chí Nguyễn Trọng Phượng - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính được điều chuyển sang công tác khác; đồng chí Hoàng Văn Ph­ương đư­ợc cử giữ chức vụ Bí th­ư Chi bộ, đồng chí Lê Đăng Biểu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính, đồng chí Nguyễn Bá Kham giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính. Sang năm 1953, do yêu cầu công tác, đồng chí Nguyễn Trọng Ph­ượng và đồng chí Nguyễn Văn Tùng đ­ược chuyển làm nhiệm vụ khác, đồng chí Hà Lê đ­ược bầu làm Bí thư­ Chi bộ, đồng chí Nguyễn Trọng Xin làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính.
Những năm 1952 - 1953, trên các chiến trường Hoà Bình, đồng bằng Bắc Bộ, Thượng Lào, thực dân Pháp suy yếu rõ rệt. Theo chủ trương của cấp trên, xã Thanh Sơn nói chung làng Tiên Nông nói riêng tiếp tục thực hiện cuộc “Đại vận động sản xuất tiết kiệm”. Cuộc vận động được tiến hành đồng đều và rộng khắp trong toàn xã. Để động viên chiến sĩ ngoài mặt trận và khuyến khích nông dân tăng gia sản xuất, Nhà nước đã có chính sách về ruộng đất và thuế nông nghiệp. Nhân ngày kỷ niệm 6 năm kháng chiến toàn quốc (19-12-1952) Hồ Chủ tịch đã nêu: “Gần 90% đồng bào là nông dân. Trong hàng ngũ Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích ta trên 90% là nông dân. Đóng thuế, đi dân công, phần lớn cũng là nông dân. Đồng bào nông dân đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế mà đồng bào nông dân lại là những người nghèo khổ nhất, vì họ thiếu đất ruộng. Giảm tô, giảm tức là một quyền lợi chính đáng của nông dân cũng chưa thực hiện được đến nơi đến chốn. Đó là một tình trạng rất không công bằng”. Chủ tịch nước cũng đã ban hành: sắc lệnh giảm tô số 78-SL ngày 14 tháng 7 năm 1949, sắc lệnh giảm tức số 89-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950, sắc lệnh số 149/SL ngày 12 tháng 4 năm1953. Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, xã Thanh Sơn đã tiến hành triệt để chính sách giảm tô, giảm tức cho tá điền và nông dân. Các khoản tô vượt hạn mức, địa chủ phải giảm cho nông dân với mức chung là 25%, số địa tô được thu không quá 1/3 số thu hoạch; số tô vượt trước khi có sắc lệnh địa chủ cũng phải thoái trả cho nông dân, nếu địa chủ không trả thì tịch thu trả lại cho nông dân. Về ruộng đất địa chủ phải cho nông dân lĩnh canh ổn định ít nhất 5 năm. Các khoản tức thì nhiều khoản nông dân nợ địa chủ được giảm hoặc miễn, mức nợ không được vượt quá mức vốn. Ở xứ Đồng Mè có địa chủ Tô Ký Xường phải thoái trả tô vượt và miễn nợ tức cho nông dân; do số tô tức phải thoái trả quá lớn, ông Xường chây ỳ thì bị chính quyền xã tịch thu toàn bộ gia sản, đất, vườn chia lại cho nông dân.
Một số cán bộ hành động cực đoan bột phát, ảnh hưởng xấu đến chính sách đoàn kết dân tộc, giai cấp và đến việc huy động lương thực cho kháng chiến. Để ổn định và củng cố niềm tin cho cán bộ và nhân dân trên mọi lĩnh vực, Chi bộ xã Thanh Sơn đã triển khai thực hiện tốt Chỉ thị Liên khu uỷ ngày 3/2/1953, rút kinh nghiệm trong đấu tranh giảm tô, giảm tức. Nhờ vậy tình hình trong xã trở lại ổn định, mọi hoạt động tiếp tục diễn ra trôi chảy và có hiệu quả.
Đêm đêm, nam nữ thanh niên, dân quân tự vệ, dân quân du kích kết hợp với cán bộ cơ quan, bộ đội sơ tán về địa phương tổ chức sinh hoạt, biểu diễn văn nghệ, sôi nổi, vui vẻ, góp phần động viên phong trào chung. Nhiều hình thức hoạt động vui tươi lành mạnh được thực hiện, làm sôi động không khí hào hùng trong thời chiến của vùng quê Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long. Mặc dù chiến tranh ngày càng ác liệt nhưng Đảng, chính quyền cách mạng luôn chú trọng việc chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được triển khai tận từng cơ sở chòm xóm. Xã đã xây dựng được trạm xá và nhà hộ sinh, có vườn thuốc nam với đủ các loại cây thuốc chữa bệnh quý “Nam dược chữa nan y”, là một xã có phong trào y tế, giáo dục tiêu biểu trong thời chiến. Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến,Chi bộ Đảng xã Thanh Sơn đã lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương của Đảng, chính sách của Việt Minh và đạt được những thành tích nổi bật trên tất cả mọi lĩnh vực. Đây là tiền đề cơ bản để xã Thanh Sơn nói chung và các chòm Trần Phú, Hồng Phong, Đăng Lưu, Đồng Lạc, Đồng Long nói riêng tiếp tục góp sức cùng cả nước bước vào giai đoạn phản công đánh thực dân Pháp.

III. XÃ HỒNG SƠN ĐƯỢC THÀNH LẬP, NHÂN DÂN HỒNG SƠN TÍCH CỰC XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG, GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
 
Tháng 8 năm 1953, xã Thanh Sơn chia thành thành 3 xã: Hồng Sơn, Giang Sơn và Kỳ Sơn. Xã Hồng Sơn gồm các xóm: Minh Sơn, Phú Sơn, Văn Sơn, Thái Sơn, Trung Sơn, Mỹ Sơn, Lạc Sơn, Long Sơn, Thọ Sơn, Cao Sơn (vùng Nhà Vi).
Đến cuối năm 1953, Đại hội Chi bộ xã Hồng Sơn lần thứ nhất có 60 đảng viên tham dự cụ thể danh sách sau:

Xóm Thọ Sơn
Xóm Văn Sơn
43/ Phan Sỹ Bản
1/ Tăng văn Độ
22/ Nguyễn Bá Truật
44/ Hoàng Văn Túy
2/ Tăng Văn Yêng
23/ Nguyễn Bá Tý
45/ Hoàng Văn Quý
3/ Tăng Văn Chế
24/ Nguyễn Bá Tuyết
46/ Phạm Thị Thảnh
4/ Nguyễn Văn Vĩnh
25/ Nguyễn Văn Bỉnh
47/ Đinh Thị Dung
5/ Nguyễn Văn Xuyến
26/ Nguyễn Văn Miển
48/ Trần Thị Đán
6/ Đặng Thị Từ
27/ Đào Văn Huỳnh
49/ Nguyễn Đức Điệp
7/ Tăng Văn Long
28/ Đào Văn Toản
Xóm Mỹ Sơn
8/ Nguyễn Xuân Hợi
29/ Hoàng Văn Phương
50/ Bùi Trọng Nghiêm
9/ Nguyễn Xuân Diên
30/ Phan Đăng Tiếp
51/ Nguyễn Văn Biên
Xóm Minh Sơn
Xóm Thái Sơn
Xóm Đồng Long
10/ Hồ Đình Đảnh
31/ Hoàng Văn Nhã
52/ Trương Công Ngợi
11/ Vương Đình Lục
32/ Hoàng Văn Tám
53/ Bùi Đăng Đàm
12/ Trần Văn Quỳ
33/ Nguyễn Văn Thụy
Xóm Đồng Lạc
13/ Nguyễn Bá Luân
34/ Nguyễn Văn Vị
54/ Thái Thị Nậy
14/ Tăng Thị Hiên
35/ Nguyễn Văn Trạch
55/ Nguyễn Thị Hiền
Xóm Phú Sơn
36/ Nguyễn Văn Tiến
56/ Nguyễn Doãn Lăng
15/Nguyễn Cảnh Nhưỡng
37/ Nguyễn Xuân Kiểu
57/ Nguyễn Đăng Yên
16/ Nguyễn Cảnh Khiêm
38/ Hoàng Bá Khánh
58/ Tạ Hữu Mịch
17/ Hoàng Văn Thận
39/ Phạm Ngọc Ky
Xóm Cao Sơn
18/ Hoàng Văn Hội
40/ Phạm Ngọc Phước
59/ Nguyễn khánh Quý
19/ Mai Văn Thẩn
Xóm Trung Sơn
60/ Lê Đăng Cởn (thầy giáo)
20/ Đào Văn Tùng
41/ Phạm Ngọc Hợp

21/ Nguyễn Hữu Thận
42/Phạm Ngọc Thời

Đại hội đã bầu ra chi ủy, đồng chí Vương Đình Lục được bầu làm Bí thư, đồng chí Đào Văn Huỳnh được phân công làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến, đồng chí Nguyễn Đăng Yên làm Phó Chủ tịch phụ trách Công an, đồng chí Nguyễn Xuân Hợi ủy viên phụ trách Nông hội, đồng chí Nguyễn Đức Điệp phụ trách xã đội dân quân du kích. Cùng với việc ổn định tình hình mọi mặt trên địa bàn xã, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn cùng cả nước tích cực đóng góp sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng.
Chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, Đảng ta chủ trương kết hợp hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, chuyển cuộc chiến sang giai đoạn “Tổng phản công”, tập trung cao độ “nhân tài vật lực”cho chiến trường. Tháng 11/1953, ta liên tiếp tấn công địch, bao vây Điện Biên Phủ và tiêu diệt 24 đại đội. Sau lưng địch ta phát triển chiến tranh du kích, mở rộng các khu du kích và căn cứ du kích. Toàn quân, toàn dân ta gấp rút tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Hồng Sơn cũng hoà chung không khí sôi sục của cả nước, đại đội thường trực và trung đội du kích các thôn đều triển khai luyện tập, bừng bừng khí thế sẵn sàng chiến đấu. Song song với đảm bảo các hoạt động sản xuất, ngày 15/2/1954 cùng với cả nước “Tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ”, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn chi viện khẩn trương hàng chục người dân công và thanh niên xung phong bổ sung ra mặt trận Điện Biên Phủ. Họ hăng hái tham gia cùng với đoàn quân của huyện rầm rập lên đường ra mặt trận. Bộ đội, thanh niên xung phong, dân công lên đường đều trong hoàn cảnh khó khăn. Nhưng tình làng nghĩa xóm hoà chung với tình yêu nước, bà con tự động viên nhau, kẻ góp tiền, người góp gạo tương trợ giúp đỡ anh em bộ đội, dân công an tâm lên đường làm nhiệm vụ.
Nhờ sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên và sự nỗ lực cố gắn của toàn thể nhân dân, Hồng Sơn đã làm tròn nghĩa vụ là hậu phương vững mạnh về chính trị, kinh tế, quân sự cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc hoàn toàn thắng lợi, mở ra bước ngoặt mới về lịch sử 3 nước Đông Dương, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ lập lại hoà bình ở Việt Nam - Lào - Căm pu chia. Trải qua thời kỳ bảo vệ và xây dựng chế độ mới và 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với cả nước, nhân dân Hồng Sơn đã dốc hết sức mình, vượt qua biết bao thử thách, khó khăn vất vả, thiếu thốn, đóng góp sức người, sức của hy sinh xương máu để góp phần giữ vững nền độc lập non trẻ của nước nhà. Nhân dân Hồng Sơn tự hào đã góp vào thắng lợi chung của đất nước.
Ngay từ buổi đầu giành độc lập, khi tình thế đất nước “Ngàn cân treo sợi tóc”, cán bộ và nhân dân các làng của Hồng Sơn luôn luôn nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết chặt chẽ, một lòng tin tưởng sâu sắc vào chế độ mới, vào Đảng, Chính quyền và Mặt trận Việt Minh, hoàn thành xuất sắc 3 nhiệm vụ chiến lược: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Điều đó đã làm tiền đề quan trọng để Hồng Sơn cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và giành thắng lợi cuối cùng. Điều đó cũng thắp sáng niềm tin cho tinh thần cao cả “sống anh dũng chết vẻ vang” của 9 liệt sỹ con em Hồng Sơn hy sinh vì dân vì nước, cống hiến công sức, xương máu của mình, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Chương bốn

XÃ HỒNG SƠN TRONG CUỘC CÁCH MẠNG XHCN Ở MIỀN BẮC
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954-1975)
 
I. HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, GÓP PHẦN CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954-1960)
 
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng. Những tên lính cuối cùng của đội quân viễn chinh Pháp đã nhục nhã xuống tàu về nước. Trong những ngày sau chiến thắng, ở Hồng Sơn cũng như các nơi khác niềm vui tràn ngập mọi nhà. Khắp mọi nẻo đường làng ngõ xóm đâu đâu cũng có băng rôn, cờ, áp phích, khẩu hiệu. Lễ mít tinh mừng chiến thắng được tổ chức trọng thể tại trung tâm xã. Đêm đêm thanh thiếu niên đốt lửa nhảy múa ăn mừng. Trong niềm vui bất tận, ai ai cũng tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và Bác Hồ kính yêu.
Sau những ngày mừng vui chiến thắng, nhân dân Hồng Sơn lại bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ mới. Công việc đầu tiên của Chi bộ và chính quyền xã Hồng Sơn là lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, đẩy mạnh sản xuất, chống lại những âm mưu phá hoại của kẻ địch.
Tháng 9/1954, đã xẩy ra một trận bão kèm theo lụt lớn gây hậu quả nặng nề cho sản xuất, đời sống nhân dân toàn huyện nói chung và Hồng Sơn nói riêng. Hơn 90% diện tích lúa và hoa màu bị hư hỏng, mùa màng thất bát. Đời sống nhân dân rất khó khăn bởi nạn đói đe dọa. Dịch bệnh xẩy ra liên tiếp, kéo dài.
Kinh tế khó khăn, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở huyện và các xã rất phức tạp. Nhiều hủ tục, tệ nạn do xã hội cũ để lại chưa được đẩy lùi, hiện tượng mê tín dị đoan, trộm cắp, rượu chè, cờ bạc bê tha… xẩy ra khá phổ biến, gây khó khăn cho việc quản lý của chính quyền và ảnh hưởng đến cuộc sống yên ổn của người dân. Một số nơi trong huyện, các luận điệu tuyên truyền chống phá của kẻ địch diễn ra như việc dụ dỗ đồng bào công giáo di cư vào Nam, xuyên tạc nói xấu, chống lại các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ cũng đã ảnh hưởng đến tình hình ở Hồng Sơn.
Trước tình hình đó, Chi bộ Đảng đã chỉ đạo chính quyền xã kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cứu đói, khắc phục khó khăn do bão lụt gây ra, làm tốt công tác tư tưởng ổn định tình hình địa phương, bước đầu phát triển văn hóa xã hội. Thực hiện khẩu hiệu “Cứu đói như cứu hỏa, một phong trào sản xuất rau màu như bầu, bí, khoai, đậu… được phát động, hưởng ứng sôi nổi, rầm rộ trong địa bàn toàn xã. Nhờ thời tiết thuận lợi lại có sự chăm sóc chu đáo nên các loại cây trồng đều phát triển tốt. Cùng với việc tăng gia sản xuất, Chi bộ, Chính quyền còn phát động phong trào hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, phong trào giúp đỡ nhau với tinh thần nhường cơm sẻ áo, cùng nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn. Ngoài ra, chính quyền xã còn vận động nhân dân lên Bãi Rỏi ở Tân Kỳ phát rẫy trỉa ngô cứu đói. Nhờ tích cực sản xuất và tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nạn đói ở Hồng Sơn từng bước được đẩy lùi, đời sống nhân dân từng bước ổn định. Năm 1955, sau trận lụt lịch sử năm 1954, đê 42 ở Nam Đàn bị hư hỏng nặng, tỉnh Nghệ An đã phát động chiến dịch đắp lại đê 42; xã Hồng Sơn đã cử 45 người tham gia, do ông Phan Đăng Lẫm chỉ huy; khối lượng đất đào đắp của xã Hồng Sơn vượt chỉ tiêu, được UBHC tỉnh tặng bằng khen.
Trên mặt trận văn hóa - xã hội, Chi bộ, Chính quyền đã lãnh đạo nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu, các tệ nạn do xã hội cũ để lại. Tuyên truyền đả phá những luận điệu xuyên tạc, những âm mưu và hành động chống phá của kẻ địch. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được đảm bảo ổn định. Công tác giáo dục, nâng cao dân trí được coi trọng. Phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ tiếp tục được thực hiện tốt, chất lượng dạy và học ở nhà trường được nâng lên.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ đề ra nhiệm vụ cách mạng nhằm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách của đời sống nhân dân ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương chắc, hùng mạnh để chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường Đông Dương. Trước tình hình đó đặt ra nhiệm vụ cách mạng cho miền Bắc là khẩn trương tiến hành cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột, đưa nông dân làm chủ ruộng đất và đảm đang sứ mệnh chính trị.
Cuối năm 1955 đầu năm 1956, huyện Anh Sơn nói chung và xã Hồng Sơn nói riêng đã hình thành thế trận đấu tranh mới - Cải cách ruộng đất thực hiện người cày có ruộng. Tháng 11/1955, đội cải cách ruộng đất đã về xã. Đội gồm có 6 người về ở trong nhà ông Lê Đức Quế. Trong thời gian thực hiện bước một, đội trưởng là đồng chí Lê Văn Lương. Các thành viên của đội thâm nhập về các xóm bắt rễ xâu chuỗi với những gia đình nghèo khổ nhất thực hiện ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, tiến hành thăm nghèo gợi khổ, sâu sát với nông dân. Đến ngày 1/12/1955, các tổ chức Đảng và chính quyền ở địa phương trước đây đều giải tán, kiện toàn lại. Mọi công việc đều do đội Cải cách điều hành. Không khí trong thôn xóm thay đổi hẳn. Khắp các xóm đều thực hiện ngày sản xuất, đêm học tập chủ trương cải cách ruộng đất. Hàng ngày cứ khoảng 19 giờ mọi người đều tập trung đến địa điểm. Người lớn không được thiếu người nào. Những gia đình thuộc trong số dự kiến thành phần bóc lột (phú nông, địa chủ) không được dự họp. Khẩu hiệu mọc lên khắp nơi "Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên", "Kiên quyết đánh đổ giai cấp bóc lột, thực hiện người cày có ruộng", "Bần cố nông đoàn kết với trung nông, liên hiệp với phú nông, cô lập giai cấp địa chủ". Tối đến tiếng trống dập dình, thiếu nhi cổ động đèn đuốc sáng trưng. Tiếng hô khẩu hiệu, tiếng hò hát vang khắp thôn xóm. Dân quan du kích tuần tra, canh gác suốt đêm.
Qua một thời gian học tập, thành phần của mỗi gia đình được quy xếp xong. Toàn xã Hồng Sơn có 12 hộ địa chủ. Từng hộ địa chủ bị dẫn tới cho nông dân đấu tố. Trong quá trình đấu tố, đoàn cải cách ruộng đất đã quyết định xử bắn 3 người là Hoàng Văn Cúc, Đào Danh Sâm, Nguyễn Văn Điền. Ngoài ra, Ruộng đất và tài sản của các hộ địa chủ đều bị tịch thu chia cho nông dân. Các tài sản như nhà ngói và nông cụ, đồ dùng bọn địa chủ đã bóc lột vơ vét của nông dân, nay phải trả lại cho nông dân. Tình hữu ái giai cấp được thể hiện trong việc chia quả thực: "Thiếu nhiều chia nhiều, thiếu ít chia ít, không thiếu không chia". Bà con nông dân nhường nhịn nhau từ những đồ dùng có giá trị đến những thửa ruộng tốt. Niềm vui sướng hể hả dâng lên khi người dân nhìn tận mắt giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ. Tình cảm giai cấp, tình làng nghĩa xóm càng thêm gắn bó.
Vào trung tuần tháng 2/1956, ngày cắm thẻ nhận ruộng thực sự là một ngày hội lớn của nông dân Hồng Sơn. Từ sáng tinh mơ, trên các nẻo đường làng, người người tấp nập đổ ra cánh đồng. Già trẻ, gái trai đều có mặt. Tiếng cười nói, tiếng gọi nhau í ới, tiếng trống vang lên rộn rã. Trẻ con nô đùa chạy tung tăng trên bờ ruộng. Các cụ già nở những nụ cười mãn nguyện nhìn con cháu cắm thẻ xuống ruộng, mắt rưng rưng cảm động vì vui sướng. Những chiếc thẻ ghi họ tên chủ ruộng cắm xuống là pháp lý công nhận quyền làm chủ của người nông dân trên thửa ruộng của mình. Từ đây người nông dân được cày bừa, chăm bón trên thửa ruộng đó, không phải làm thuê, làm mướn như trước nữa. Niềm mơ ước ngàn đời của người nông dân đã thành hiện thực. Nhiều người cầm thẻ mà tay run run, cứ ngỡ là trong giấc mơ. Được hưởng niềm vui vô bờ bến này, người nông dân không thể nào diễn tả hết lòng biết ơn Đảng, ơn Bác Hồ. Họ vui sướng hình dung cuộc sống tươi đẹp trong tương lai, cuộc sống no ấm đầy đủ khi có ruộng đất, từ nay họ thực sự được làm người. Trong cuộc Cải cách ruộng đất, ở Hồng Sơn có một số quần chúng ưu tú trở thành đảng viên như đồng chí Nguyễn Văn Hải, đồng chí Trần Tự Kỳ (cả hai đều ở xóm Trung Sơn). Thời gian này, đồng chí Nguyễn Xuân Hợi được đội cải cách chỉ định giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Hồ Đình Đảnh giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, đông chí Hoàng Bá Khánh làm Phó Chủ tịch xã.
Cuộc Cải cách ruộng đất đã giành được thắng lợi to lớn. Giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, ước mơ ngàn đời của người nông dân “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc Cải cách ruộng đất ở miền Bắc nói chung và Hồng Sơn nói riêng đã phạm phải một số thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng. Với tư tưởng giáo điều, máy móc, đội cải cách không dựa vào tổ chức cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng đã có mà sử dụng phương pháp “Ba cùng” bắt rễ, xâu chuỗi tận cụm dân cư, sử dụng tổ chức đội thay cho tổ chức Đảng, chính quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, các đảng viên bị gạt ra ngoài cuộc vận động. Trong việc chỉnh đốn tổ chức, một số người trung thực, có năng lực bị loại bỏ, đưa người thiếu trình độ, năng lực và non yếu kinh nghiệm công tác lên thay làm cho vai trò lãnh đạo của Chi bộ đảng bị suy yếu. Việc quy định thành phần rập khuôn đã đẩy một số người trong tầng lớp trung nông, phú nông lên địa chủ. Một số cán bộ, đảng viên từng có bề dày công tác, cống hiến cho cách mạng bị quy sai thành phần và bị khai trừ khỏi đảng. Những điều đó đã gây ra sự hoang mang, xáo trộn về tư tưởng trong nhân dân toàn xã.
Sau khi phát hiện sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra nghị quyết về công tác sửa sai.
Tháng 8/1956, chấp hành chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy Nghệ An ra thông báo về thắng lợi của cuộc Cải cách ruộng đất và đồng thời hướng dẫn sửa sai. Tháng 11/1956, Huyện ủy Anh Sơn quyết định tổ chức hội nghị đảng viên 1930-1931 và đảng viên cũ để bàn việc sửa chữa sai lầm và kiện toàn tổ chức Đảng. Hội nghị được quán triệt nội dung Nghị quyết 10 của Trung ương, thư của Hồ Chủ tịch và bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh. Đoàn cán bộ của Chi bộ xã Hồng Sơn có đồng chí Cao Tiến Khuê, Nguyễn Sỹ Chính (nay đã chuyển về xã Giang Sơn Tây) tham dự hội nghị này.
Sau khi cuộc họp kết thúc, đoàn cán bộ về khẩn trương triển khai tổ chức học tập trong Đảng và trong quần chúng nhân dân. Cuộc sửa sai được xúc tiến khẩn trương và kiên quyết. Với phương châm là: "Có sai thì sửa, sửa sai thành đúng, không sửa đúng thành sai". Những đảng viên bị kỷ luật sai bị đình chỉ sinh hoạt nay được phục hồi đảng tịch như các đồng chí Nguyễn Cảnh Nhượng, Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Quý, Phạm Ngọc Hợp ... Các vị trí chủ chốt trong Chi bộ, chính quyền cũng được phục hồi. Thời gian này, đồng chí Phạm Ngọc Phước giữa chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Nguyễn Xuân Diên làm Chủ tịch ủy ban hành chính, đồng chí Hoàng Bá Khánh làm Phó Chủ tịch.
Những hộ địa chủ bị quy sai được sửa thành phần và trả lại tài sản đã bị tịch thu và ruộng đất đủ mức bình quân ấn định lúc đó. Cụ thể có 11 hộ được hạ thành phần từ địa chủ xuống phú nông và tổ chức sửa sai cho một số đồng chí đảng viên. Sau khi ổn định lại tổ chức, Chi bộ đã phân công cán bộ làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích để các gia đình, cán bộ, đảng viên bị quy sai, xử sai thông suốt và an tâm công tác Nhờ vậy tình hình tư tưởng trong nhân dân từng bước ổn định, khối đoàn kết toàn dân được củng cố, tình làng nghĩa xóm, tình cảm anh em, bà con, đồng chí được hàn gắn trở lại mật thiết như xưa. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, các tổ chức đoàn thể từ xã đến xóm cũng được củng cố và tiếp tục hoạt động tích cực. Công tác chỉ đạo sản xuất phát triển kinh tế được Cấp ủy, Chính quyền xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và triển khai thực hiện có hiệu quả. Lĩnh vực văn hóa - xã hội được coi trọng, tình hình an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống nhân dân từng bước ổn định. Nhân dân phấn khởi, an tâm sản xuất, làm ăn. Tình cảm giai cấp, sự tương thân tương ái trong nội bộ nông dân được tăng cường. Bà con tích cực giúp nhau trong cuộc sống và sinh hoạt với tinh thần "mình vì mọi người".
Là xã có địa hình rất phức tạp, về mùa lũ là rốn lũ của cả vùng, còn về hạn hạn đất đai cũng nẻ chân chim. Vì thế, vào năm 1957, ở Hồng Sơn nói riêng và Anh Sơn nói chung đã xẩy ra hạn hán nặng nề làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống. Trước tình hình đó, Chi bộ Đảng và chính quyền đã tập trung lãnh đạo nhân dân khắc phục hạn hán. Khẩu hiệu là "Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa". Những gàu nước tát ba, bốn bậc từ khe suối lên đồng ruộng, những gánh nước bằng thau, bằng lon, bằng lu đều được thực hiện để tưới cho mạ. Từ ông bà già đến thanh niên và các em học sinh đều được huy động vào trận chiến đấu chống thiên tai này. Nhờ những nỗ lực của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, học sinh, nạn hạn hán đã được đẩy lùi, kế hoạch sản xuất nhìn chung được đảm bảo. Thời gian này ruộng đất đã được ổn định cho từng hộ nông dân, bộ thuế nông nghiệp cũng được hoàn chỉnh lại.
Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được coi trọng và thực hiện tốt. Nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho tền tuyến miền Nam luôn được Chi bộ và nhân dân Hồng Sơn hoàn thành tốt. Mọi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước đều được quán triệt tận nhân dân và được nghiêm chỉnh chấp hành kể cả tầng lớp thành phần bóc lột.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng được Chi bộ, Chính quyền quan tâm. Công tác giáo dục được chú ý, tỷ lệ con em được huy động đến trường ngày càng cao, chất lượng từng bước được nâng lên. Chính quyền, các đoàn thể tổ chức vận động nhân dân thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan, rèn luyện sức khoẻ, làm sạch đẹp thôn xóm, ăn ở hợp vệ sinh. Ý thức phòng bệnh qua từng mùa được nhân dân quan tâm và tự giác thực hiện. Hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được tổ chức tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và bộ mặt nông thôn của Hồng Sơn có chuyển biến tích cực. 
Giữa năm 1957, một niềm vui, niềm vinh dự lớn lao đến với Đảng bộ và nhân dân Nghệ An. Đó là sự kiện Bác Hồ về thăm quê hương. Sau bao nhiêu năm xa quê hương làm cách mạng, Bác đã trở về thăm quê và giành cho bà con tỉnh nhà tình cảm quý báu và thiêng liêng nhất. Vinh dự được hưởng niềm vui gặp Bác lần này đại diện cho Chi bộ xã Hồng Sơn có đồng chí là Phạm Ngọc Phước.
Tháng 12/1957, Ban Chấp hành Trung ương họp ở Thủ đô Hà Nội đã đánh giá tình hình đất nước từ sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng cho miền Bắc đang trong giai đoạn quá độ tiến lên CNXH. Trung ương chủ trương phải nhanh chóng xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh để làm hậu thuẫn cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Từ thời gian này, nhân dân Hồng Sơn cùng với nhân dân miền Bắc bước vào cuộc cách mạng xây dựng “Ba ngọn cờ hồng” (lúc này còn gọi là "Tam đại hồng kỳ"). Đó là ba hợp tác xã: Mua bán, Tín dụng và Nông nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và chính phủ là xóa bỏ thị trường tự do, xây dựng thị trường XHCN, giữa năm 1957, hợp tác xã mua bán đã được thành lập ở Hồng Sơn. Tiếp đến, Hợp tác xã Tín dụng cũng được thành lập do ông Nguyễn Hữu Thận (Chung) làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã Tín dụng mượn nhà ông Dương Công Trinh làm trụ sở. Còn đối với hợp tác xã Nông nghiệp thì bước đầu cho thành lập các tổ đổi công, vần công ở các xóm sau đó mới tiến lên xây dựng các hợp tác xã cấp thấp. Vì thế, thời gian từ cuối năm 1957 đầu năm 1958, ở Hồng Sơn đã có hàng chục tổ đổi công, vần công trong các xóm. Mỗi tổ đổi công từ 5- 10 gia đình giúp nhau trong sản xuất như làm đất, cấy lúa, trồng khoai…
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 vào tháng 11/1958, đã đề ra nghị quyết về Kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa. Để triển khai thực hiện Nghị quyết thứ lần 14 của Ban Chấp hành Trung ương, Huyện ủy Anh Sơn đã ra nghị quyết và động viên toàn Đảng, toàn dân quyết tâm hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể và tích cực phát triển thành phần kinh tế quốc dân mà khâu chính là cải tạo nông nghiệp dưới hình thức hợp tác xã.
Năm 1958, Chi bộ Đảng xã Hồng Sơn đã tổ chức Đại hội lần thứ 2 và đề ra nghị quyết gồm các nội dung chủ yếu như sau:
- Về kinh tế: Phát động phong trào thi đua đẩy mạnh sản xuất nhằm tăng lương thực tự túc để cải thiện đời sống nhân dân; quán triệt điều lệ 3 hình thức hợp tác xã cho nhân dân; Cử người dự đào tạo cán bộ ngành thuộc ban quản lý HTX nông nghiệp; vận động nông dân tự nguyện gia nhập HTX nông nghiệp; cải tạo bờ vùng bờ thửa trên đồng ruộng và củng cố các bờ quai, bờ đập đã có; quyết tâm hoàn thành mọi chỉ tiêu nhiệm vụ về lương thực, thực phẩm.
- Về chính trị: Hoàn thiện các tổ chức từ xã tới các thôn xóm; củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể.
- Về văn hóa, xã hội: Tu sửa phòng học đảm bảo đủ điều kiện cho con em học tập.
- Về quân sự: Triển khai học tập quán triệt luật nghĩa vụ quân sự trong thanh niên và nhân dân.
Trong Đại hội này, đồng chí Nguyễn Xuân Hợi được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Về chính quyền, đồng chí Phạm Ngọc Phước giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Hoàng Bá Khánh làm Phó Chủ tịch xã.
Đại hội ra nghị quyết về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp nên sau khi được học tập thông suốt chủ trương của Trung ương, toàn xã có 90% hộ tự nguyện nạp đơn xin gia nhập hợp tác xã. Căn cứ vào địa bàn và nhân khẩu toàn xã đã chính thức thành lập 9 hợp tác xã nông nghiệp cấp thấp đó là:
-         HTX Minh Sơn do ông Nguyễn Bá Luân làm chủ nhiệm
-         HTX Phú Sơn do ông Nguyễn Hữu Thận làm chủ nhiệm
-         HTX Văn Sơn do ông Đào Văn Huỳnh làm chủ nhiệm
-         HTX Thái Sơn do ông Nguyễn Văn Thụy làm chủ nhiệm
-         HTX Trung Sơn do ông Phạm Ngọc Hợp làm chủ nhiệm
-         HTX Mỹ Sơn do ông Bùi Trọng Nghiêm làm chủ nhiệm
-         HTX Lạc Sơn do ông Tạ Hữu Bình (ông Bình cha) làm chủ nhiệm
-         HTX Long Sơn do ông Nguyễn Sỹ Phú làm chủ nhiệm
-         HTX Thọ Sơn do ông Nguyễn Văn Xuyến làm chủ nhiệm
Các hợp tác xã đều chưa có trụ sở, nhà kho, sân phơi… tất cả đều mượn của xã viên. Để đào tạo cán bộ cho các hợp tác xã, Hồng Sơn đã cử năm người đi học trường quản lý do tỉnh mở thời gian 3 tháng 15 ngày. Sau khi đi học về được bố trí làm việc ở các hợp tác xã. Nhưng do điều kiện tự nhiên và cách làm ăn mới nên trong vụ sản xuất của năm 1959, các chỉ tiêu của xã Hồng Sơn không đạt nên phải nhận cờ rùa. Để xóa cờ rùa, năm 1960 các hợp tác xã tổ chức đại hội kiện toàn và đề ra các chủ trương như: Tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất các loại cây trồng; Phát triển các ngành nghề: vôi, gạch ngói, mộc, nề để phục vụ nhu cầu của nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất tập thể.
Triển khai chương trình đại hội của các hợp tác xã, bà con xã viên bước vào vụ sản xuất mới. Kết quả, năm 1960, năm thứ ba tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, Hồng Sơn đã giành thắng lợi lớn, được mùa cả hai vụ. Thu nhập bình quân mỗi công được 4 kg thóc. Đó là điều kiện củng cố niềm tin cho xã viên vào con đường làm ăn tập thể. Đời sống của xã viên được nâng lên, nguồn tích lũy của Nhà nước và hợp tác xã đều tăng.
Hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao cũng được quan tâm. Được sự nhất trí của Cấp ủy, Chính quyền, Đoàn thanh niên đã xây dựng hoàn chỉnh một sân bóng và tổ chức một đội bóng đá của xã. Đội bóng tích cực luyện tập và tham gia thi đấu trong các giải do Huyện tổ chức và giao hữu với các xã bạn nhân các dịp lễ tết. Sân bóng còn là nơi tập trung vui chơi của nhân dân trong các ngày tết, ngày lễ.

II. GÓP PHẦN THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC DO ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ III ĐỀ RA VÀ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961-1965)

Ngày 5/9/1960, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội chỉ rõ “Nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước và sự nghiệp thống nhất đất nước”.
Vào cuối năm 1960, Đảng bộ xã Hồng Sơn được thành lập. Lúc này Đảng bộ xã Hồng Sơn có 90 đồng chí. Sau khi được thành lập, vào tháng 2 năm 1961, Đảng bộ xã Hồng Sơn đã tổ chức Đại hội lần thứ 3 nhiệm kỳ 1961 - 1962. Đại hội đã đề ra phương hướng: Tiếp tục củng cố các Hợp tác xã đã thành lập, phát triển thêm các Hợp tác xã mới. Phấn đấu thực hiện tốt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do Đảng đề ra. Xây dựng và củng cố tổ chức Đảng về mọi mặt.
Đại hội đã bầu 7 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Nguyễn Xuân Hợi được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ, đồng chí Vương Đình Lục được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu giữ chức vụ Ủy viên thường vụ trực Đảng, đồng chí Hoàng Văn Chương được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã.
Nhằm tăng sản lượng lương thực để cải thiện đời sống cho dân và đáp ứng nhiệm vụ cho Nhà nước, phương châm mà Chi bộ và Chính quyền đề ra là thâm canh, cao sản. Năm 1961, phong trào làm bèo hoa dâu được phát động rộng rãi. Toàn bộ diện tích cao sản đều được phủ kín bèo dâu. Vì thế, Hông Sơn được huyện tặng giấy khen về thành tích nôi và trồng bào hoa dâu. Công việc này được Đoàn Thanh niên đảm nhận. Công tác khai hoang phục hóa cũng được đẩy mạnh để mở rộng diện tích. Lực lượng nòng cốt vẫn là Đoàn Thanh niên. Kết quả đợt này đã khai phá được hàng chục mẫu ruộng đất. Xã còn  huy động được hàng ngàn ngày công cho công tác thủy lợi, tu sửa các đê đập trong xã và tham gia các công trình lớn của huyện, của tỉnh như đập Bàu Đá ở Trù Sơn - Đô Lương; đập Đồng Quan ở huyện Anh Sơn, đê Phượng Kỷ ở xã Đà Sơn - Đô Lương, đập Khe Bưởi ở Nghĩa Đàn, đập Mộ Dạ... Trong quá trình tham gia làm thủy lợi, Hồng Sơn đã đạt được nhiều thành tích, được ban chỉ huy công trường xây dựng đập Bàu Đá tặng giấy khen, đồng chí Nguyễn Thị Kim được huyện khen thưởng ở công trình đắp đạp Mộ Dạ. Bên cạnh đó, các hợp tác xã nông nghiệp còn tổ chức đắp các con đập nhỏ để lấy nước sản xuất như đập Cánh Diều, đập Trường Pheo, tràn bộ đội… Trong phong trào làm đập Trườnng Pheo đã xuất hiện hai kiện tướng đội đất đó là anh Lê Văn Quế và chị Nguyễn Thị Nghệ.
Thực hiện chủ trương của cấp trên về việc dắm dân vào vùng đồi núi, xã Hồng Sơn đã tiếp nhận nhân dân xã Yên Sơn nhập vào xóm Thọ Sơn và Đồng Mè. Tổng số hộ lên dắm dân là 24 hộ. Về sau 21 hộ được cắt về xã Giang Sơn còn 3 hộ ở lại xã Hồng Sơn.
Tháng 4/1962, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 4 nhiệm kỳ 1962-1964. Đại hội đã đánh giá việc thực hiện Nghị quyết do Đại hội nhiệm kỳ trước đã đề ra. Đồng thời Đại hội cũng đánh giá những kết quả đạt được trong phong trào xây dựng thành lập Hợp tác xã, những thành tích đạt được trong phong trào sản xuất nông nghiệp theo phương thức làm ăn tập thể. Đại hội tiếp tục khẳng định vai trò của Hợp tác xã trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 7 đồng chí, đồng chí Nguyễn Xuân Hợi được bầu làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Lê Văn Nghĩa được bầu làm Ủy viên thường vụ trực Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Yên được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã.
Thực hiện chủ trương của cấp trên về cải tiến quy mô hợp tác xã, và thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ nên các hợp tác xã nhỏ được sáp nhập lại thành các hợp tác xã trung quy mô:
-         Các hợp tác xã Minh Sơn, Phú Sơn, Văn Sơn sáp nhập thành hợp tác xã Trần Phú do ông Nguyễn Cảnh Khiêm làm chủ nhiệm.
-         Các hợp tác xã Thái Sơn, Trung Sơn, Mỹ Sơn sáp nhập thành hợp tác xã Hồng Phong do ông  Nguyễn Văn Thụy làm chủ nhiệm.
-         Còn các hợp tác xã Thọ Sơn, Long Sơn, Lạc Sơn vẫn để quy mô nhỏ. Hợp tác xã Thọ Sơn do ông Nguyễn Xuân Diên làm Chủ nhiệm.
Vào tháng 4/1964, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 5 nhiệm kỳ 1964-1965, được tổ chức. Đại hội đã bàn và thống nhất phương hướng của Đảng bộ trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; tích cực chuẩn bị tinh thần vật chất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ trong thời kỳ mới, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 7 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Bí thư, đồng chí Phan Đăng Lẫm được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Cảnh Nhượng được bầu làm Phó Bí thư trực Đảng, đồng chí Hoàng Bá Khánh được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã.
Năm 1964, phong trào cao sản được cấp trên phát động thành một chiến dịch rầm rộ như tiếng trống Xô viết năm xưa (phong trào được gọi là cuộc cách mạng "xanh"). Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở Truông Cồn Đọi. Đồng chí Võ Thúc Đồng, Bí thư Tỉnh ủy về dự và phát động phong trào. Đồng chí Nguyễn Công Long, Bí thư Huyện ủy Đô Lương đã giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho từng đảng bộ, khẩu hiệu của phong trào là: “Giành cờ đỏ, bỏ cờ xanh, thanh cờ trằng” và “Giữ cờ đỏ, vươn lên giành cờ ngựa, cờ tên lửa”.
Sau cuộc mít tinh ở huyện về, Hồng Sơn đã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi giữa các hợp tác xã, các đội sản xuất. Thực hiện khẩu hiệu "Người người thi đua, ngành ngành thi đua”, thời kỳ này toàn miền Bắc đã dấy lên nhiều phong trào thi đua sôi nổi. Trong quân đội có "Cờ ba nhất", trong nông nghiệp có "Gió Đại Phong”; trong thủy, hải sản có "Sóng Duyên Hải". Lá cờ đầu về nông nghiệp toàn miền Bắc là Hợp tác xã Đại Phong ở Quảng Bình. Ở Hồng Sơn đã phát đồng phong trào làm thủy lợi, đắp đập Nước Bạc với sự tham gia của 180 đoàn viên thanh niên.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, ngành nghề thủ công nghiệp được quan tâm. Các hợp tác xã đã xây dựng được lò vôi, lò ngói để cung cấp vật liệu xây dựng cho dân và tăng tích lũy cho tập thể. Công tác xây dựng cơ bản cũng được chú ý. Các công trình của tập thể như trụ sở Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã, trạm xá, nhà hộ sinh đều đã được xây dựng, củng cổ ngày càng đầy đủ hơn.
Lĩnh vực văn hóa xã hội được coi trọng và tạo điều kiện để phát triển. Công tác vệ sinh phòng bệnh gắn liền với nội dung xây dựng nếp sống mới được đặc biệt quan tâm. Năm 1962, xã Hồng Sơn đã xây dựng được trạm y tế đầu tiên của xã với một nhà cấp 4 lợp tranh tre, làm thành 3 gian 2 hồi. Do ông Nguyễn Cảnh Chất làm trạm trưởng, hộ sinh là chị Nguyễn Thị Điệp, và ở mỗi xóm có 1 vệ sinh viên. Cũng trong năm 1962, 2 xã Hồng Sơn và Bài Sơn được Ty Y tế Nghệ An chọn làm điểm triển khai công tác vệ sinh phòng bệnh. Các cán bộ của Ty được giao về chỉ đạo tại 2 xã là đồng chí Nguyễn Tài Giao và Nguyễn Cảnh Đạt. Học tập nhân dân xã Thanh Thịnh của huyện Thanh Chương về việc đào giếng sâu từ 15-20 m để lấy nước sinh hoạt. Đoàn công tác của Ty Y tế đã kết hợp với Trạm y tế xã vận động nhân dân đào giếng để lấy nước sinh hoạt. Sau đó là xây dựng hố xí, nhà tắm… Vì thế, sau khi triển khai đã có hơn 90% số hộ đã có 3 công trình, 100% số hộ ngủ mắc màn, đường làng ngõ xóm thường xuyên sạch đẹp. Các loại thuốc để diệt muỗi như DDT, các loại thuốc chống bệnh sốt rét như Ký Ninh, Pla-lun-xít được cấp cho trạm y tế để điều trị. Với các biện pháp như vậy nên đến năm 1963, xã Hồng Sơn đã thanh toán được bệnh sốt rét. Với thành tích đó, xã Hồng Sơn được mời đi dự tổng kết công tác y tế tại Ty Y tế, được Tặng thưởng Bằng khen của Bộ Y tế và được đoàn đại biểu của Bộ Y tế về thăm. Đến năm 1964, trạm y tế xã có thêm một y tá là ông Hoàng Văn Thân và một thầy thốc đông y là Nguyễn Cảnh Liên.
Về công tác giáo dục, thời gian trước năm 1960, phần đông con em Hồng Sơn học hết cấp 1 rồi nghỉ ở nhà làm ruộng vì xã chưa có trường PT cấp 2. Ai muốn học lên cấp 2 thì phải đi ra xã Lam Sơn thi đậu mới được học.
Hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, thông tin tuyên truyền được chú ý. Việc xây dựng con người mới, nếp sống mới được quan tâm. Chi bộ, Chính quyền chủ trương vận động bỏ các hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, bài trừ mê tín dị đoan gắn với việc thực hiện những nội dung tiến bộ. Những người hành nghề mê tín dị đoan được giáo dục vận động bỏ nghề. Quy ước nếp sống mới được đề ra và tổ chức vận động mọi người tham gia thực hiện. Phong trào cưới hỏi theo phương châm “Vui vẻ tiết kiệm” được mọi người hưởng ứng tích cực. Phong trào vệ sinh sạch làng tốt ruộng được mọi gia đình tham gia sôi nổi. Các đội văn nghệ quần chúng được thành lập, tổ chức luyện tập, biểu diễn với nội dung phong phú sinh động và gần gũi với đời sống sản xuất. Công tác thông tin tuyên truyền được chú trọng làm tốt, kịp thời đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân.
Công tác xây dựng đảng luôn được coi trọng, làm tốt. Từ năm 1961- 1965, mỗi năm Đảng bộ đã phát triển được hàng chục đảng viên mới. Việc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến được hoàn thành tốt. Hàng năm thanh niên Hồng Sơn đều hăng hái tham gia lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Năm 1960, có 2 đồng chí, năm 1961 có 13 đồng chí. Từ năm 1960-1965, xã có 50 người đi nhập ngũ.
Cách mạng miền Nam đã giành được những thắng lợi làm nức lòng nhân dân cả nước. Liên tiếp bị thất bại trên các chiến trường, đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam và gây ra cuộc “Chiến tranh cục bộ” đồng thời chúng mở rộng chiến tranh không quân và hải quân ra miền Bắc.
Ngày 5/8/1964, dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc bộ”, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc trong đó có Nghệ An. Nhân dân Hồng Sơn cùng với miền Bắc bước sang thời kỳ mới, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chi viện cho tuyền tuyến miền Nam.

III. TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÔNG  CUỘC XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC, GÓP PHẦN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀ CHI VIỆN CHO CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM (1965 – 1972)

Trước tình hình đế quốc Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc, Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa III) đã đề ra nhiệm vụ cho miền Bắc “Chuyển hướng xây dựng kinh tế để phù hợp với tình hình chiến tranh, tăng cường quốc phòng, chi viện cho miền Nam với mức cao nhất. Chuyển hướng tư tưởng, tổ chức đi đôi với chuyển hướng kinh tế và quốc phòng”. Hội nghị cũng chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là phải nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến.
Đầu năm 1965, Đảng bộ xã Hồng Sơn tổ chức Đại hội Đảng lần thứ 6 bộ nhiệm kỳ 1965-1967. Đại hội đã đề ra nghị quyết đó là đặt công tác phòng tránh, đánh địch và sản xuất là hai nhiệm vụ hàng đầu. Đối với nhiệm vụ sản xuất, Đảng bộ phát động một cao trào sản xuất bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi, sản xuất đi đôi với tiết kiệm tiêu dùng. Đối với nhiệm vụ chiến và phục vụ chiến đấu, Đảng bộ tập trung chỉ đạo củng cố lực lượng dân quân tự vệ, quan tâm đặc biệt đến công tác an ninh quốc phòng; tổ chức phòng tránh tốt để đánh trả thắng lợi. Hầm hào thường xuyên phải củng cố kể cả hầm hào công cộng và hầm hào gia đình; Quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ cung cấp người và của cho tiền tuyến
Đại hội bầu đồng chí Hoàng Văn Thụy làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Phan Đăng Lẫm làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Cảnh Nhượng làm Phó Bí thư trực, đồng chí Hoàng Bá Khánh được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã.
Thực hiện chủ trương của cấp trên và của nghị quyết Đại hội Đảng bộ, xã Hồng Sơn đã khẩn trương lập kế hoạch chỉ đạo toàn dân, toàn quân triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm hạn chế những tổn thất do bom Mỹ gây ra như:
- Tổ chức cho toàn dân đào hầm hào trú ẩn đề phòng tránh bom đạn địch. Trước hết là bảo đảm an toàn cho người và tài sản tập thể, tài sản của nhân dân; đảm bảo mọi sinh hoạt được diễn ra bình thường. Với khẩu hiệu “Người người đào hầm, nhà nhà có hầm”, toàn xã đã đào được hàng trăm hầm chữ A, hầm tròn, hàng ngàn mét hào giao thông từ xóm này qua xóm khác, dọc theo các con đường và tỏa ra đồng ruộng. Các xóm, trạm y tế, trụ sở… đều tổ chức đào hầm hào cho cán bộ, nhân viên trú ẩn. Các hộ gia đình đều có hầm tròn sâu trong lòng đất dưới nền nhà, trong vườn. Trường học được phân tán và sơ tán đến nơi an toàn như ở xóm 4 và xóm 2, các phòng học được đặt dưới hầm theo kiểu bán âm bán dương, 4 bề có lũy đất bao quanh và có đường hào thoát ra ngoài đảm bảo an toàn cho thầy và trò khi có chiến tranh xảy ra.
- Tăng cường xây dựng và trang bị mọi mặt cho lực lượng dân quân tự vệ, củng cố các trung đội dân quân. Quán triệt chủ trương của Đảng, thi hành chỉ thị cấp trên, Hồng Sơn đã đẩy mạnh công tác chuẩn bị chiến đấu, phục vụ chiến đấu và phòng không sơ tán. Xã có một đại đội dân quân, mỗi xóm tổ chức một trung đội dân quân mạnh, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Các tổ chức cứu thương, tổ đào bới hầm sập, tổ chữa cháy đều được giao nhiệm vụ cụ thể. Mỗi gia đình đều có túi thuốc tự cứu, bông băng, thuốc sát trùng. Trạm y tế xã thì xây dựng một tủ thuốc quốc phòng. Ngoài ra, Hồng Sơn còn thành lập các đội trực chiến, tham gia các đội phòng không chủ lực của Tỉnh, của Quân khu. Tiến hành xây dựng cụm trận địa pháo 37 ở Chọ Rốc; bố trí trận địa ở các vùng xung yếu, sẵn sàng đánh trả máy bay địch; sơ tán các cơ quan làm việc vào nơi an toàn, động viên nhân dân sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng bảo vệ mạch máu giao thông, bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân, cung cấp đầy đủ người và của cho miền Nam, thanh niên sẵn sàng chờ lệnh để lên đường nhập ngũ.
- Đón nhận và tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị về chiến đấu và công tác trên địa bàn. Thực hiện chủ trương của cấp trên về việc sơ tán các cơ quan và bố trí các đơn vị chiến đấu, là một xã có nhiều rừng, núi đá của huyện Đô Lương, Hồng Sơn vinh dự được đón tiếp các cơ quan nhà nước và quân đội như: Trường Hạ sỹ quan Công an vũ trang, kho quân nhu, quân trang của Quân khu IV, kho 55B (ở xóm 2 và 3), kho K41 (đến năm 1966 thì kho K41 chuyển về xóm Lạc Sơn); công trường của Thanh niên xung phong ở lèn đá (1966), một trung đoàn của sư 316 đóng ở Vệ Thị, Sư đoàn 37 tên lửa (đóng ở xóm 2), Công ty Dược phẩm Nghệ An, Nhà máy thuốc lá Nghệ An và một số kho xăng của nhà nước…
Bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, mọi mặt công tác vẫn được Đảng bộ, Chính quyền thường xuyên quan tâm. Các hợp tác xã đã huy động hàng ngàn ngày công để làm thủy lợi, giao thông, dời dân lên đồi để tăng diện tích canh tác.
Từ ngày 19/3/1965, trong cuộc tấn công chiến lược phá hoại lần thứ nhất nhằm ngăn cản sự tiếp tế, chi viện của nhân dân miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã cho máy bay đã bắn phá một số khu vực trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Huyện Đô Lương là nơi có nhiều công trình dân sinh kinh tế, giao thông quan trọng, lại có nhiều kho tàng Nhà nước, doanh trại quân đội nên đã trở thành mục tiêu các trận oanh kích của đế quốc Mỹ. Những trọng điểm chúng tập trung đánh phá là Kho lương thực Chợ Sỏi thuộc xã Lưu Sơn; cầu Khuôn trên trục đường quốc lộ 7 thuộc xã Hòa Sơn; Đồi Sy thuộc xã Trung Sơn; Sư đoàn bộ 324 ở xã Đà Sơn, Lạc Sơn; cầu và đập Bara ở Tràng Sơn; Vòm Cóc ở Nam Sơn… Để nâng cao sức cảnh giác lực lượng dân quân thường xuyên luyện tập, sẵn sàng nhận lệnh và tổ chức tuần tra canh gác ngày đêm, bảo đảm an ninh trật tự cho nhân dân, hai trạm gác đầu xã và cuối xã được dân quân thay nhau đảm nhận canh gác. Hầm hào vẫn không ngừng được tu sửa; các lớp học chuyển về các xóm, nền lớp học đào sâu xuống đất, xung quanh có hầm trú ẩn và hào thoát;  con em đi học đầu đội mũ rơm để tránh bom đạn của giặc và mảnh pháo. Công tác chi viện chiến trường luôn được Hồng Sơn quan tâm thực hiện tốt.
Bước sang năm 1966, cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, mức độ đánh phá của máy bay Mỹ vào địa bàn Hồng Sơn cũng tăng lên. Đầu năm 1966, một quả rốc-két bắn vào nhà dân ở xóm 7 làm bị thương 2 phụ nữ.
Cuộc chiến đấu giữa ta và giặc Mỹ đã đến giai đoạn gay go quyết liệt. Ngày 17/7/1966, Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân đánh Mỹ trong đó có câu nói bất hủ: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, cả nước thi đua đánh Mỹ. Ở Hồng Sơn lực lượng dân quân thường xuyên được huy động bất kể ban ngày hoặc ban đêm, khi đào hầm pháo, khi chặt lá giúp bộ đội ngụy trang xe pháo, khi đi vận chuyển vũ khí, đạn dược cho hai đơn vị kho. Là địa bàn có nhiều cơ quan quân sự đóng, trong đó có kho quân trang, quân dụng của Quân khu IV nên khi có hàng về nhân dân đã tình nguyện giúp đỡ vận chuyển hàng trăm tấn hàng, đạn dược kịp thời. Xe đến lúc nào dân quân được huy động bốc xếp lúc đó. Các em học sinh tổ chức thu gom dẻ rách giúp bộ đội để dùng lau xe, lau pháo, súng đạn.
Thời gian này, theo chủ trương của Đảng bộ, toàn xã đã dấy lên một phong trào mạnh mẽ về cất bốc mồ mả trên đồng ruộng quy tập vào các nghĩa trang trên đồi núi để tăng diện tích canh tác. Các hợp tác xã còn lên sơ đồ và tiến hành xây dựng bờ vùng, bờ thửa, cải tạo đồng ruộng, giữ nước chống hạn. Đặc biệt để chống bom mìn, hợp tác xã đã có chủ trương thay não cỏ từ não sắt sang não gỗ để đảm bảo an toàn cho nhân dân khi sản xuất.
Hợp tác xã Mua bán chuyển hoàn toàn mọi hoạt động vào thời chiến, thực hiện đông đồng giảm chợ để huy động nhân lực vào sản xuất trên đồng ruộng. Các tổ mua bán đưa hàng về tận các xóm để phục vụ nhân dân, tránh việc đi lại nhiều trong thời gian chiến tranh. Đảng viên được phát động thực hiện phong trào "Bốn tốt": sản xuất tốt, chiến đấu tốt, đoàn kết tốt, hoàn thành nghĩa vụ tốt.
Cũng trong thời gian này, một tổn thất to lớn đã đến với nhân dân cả nước: đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Đại tướng - Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh. Với niềm tiếc thương và xúc động vô hạn, Đảng bộ và nhân dân xã Hồng Sơn đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Chí Thanh tại nhà kho hợp tác xã ở Đồng Chăm.
Mặc dù chiến tranh xẩy ra ác liệt nhưng lĩnh vực văn hoá xã hội vẫn luôn được quan tâm. Công tác giáo dục được chú ý làm tốt, cơ sở vật chất trường học được cải tạo, xây dựng ngày càng tốt hơn. Chất lượng dạy và học từng bước nâng lên. Lúc này ngành giáo dục có chủ trương phổ cập chương trình trung học cấp 2 cho đội ngũ cán bộ cấp xã. Giáo viên chuyên trách bổ túc văn hóa do Phòng Giáo dục cử về đã phối hợp với lực lượng giáo viên cấp 1 và cấp 2 cùng tham gia giảng dạy. Nhờ việc này, hầu hết cán bộ chủ chốt của địa phương đã được đào tạo nâng cao trình độ ngày càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Thời gian này, xã Hồng Sơn mới chỉ có trường cấp 1 còn trường cấp 2 chưa xây dựng được nên con em của xã phải lên xã Giang Sơn để học cấp 2. Đến năm học 1965-1966, trường cấp 2 của xã được thành lập giúp cho việc học tập của các em học sinh đỡ vất vả hơn. Trong năm học 1968-1969, xã Hồng Sơn có 2 em học sinh là Nguyễn Thị Hạnh Phúc và Nguyễn Quốc Dung được vinh dự đi tham gia kỳ học sinh giỏi toàn miền Bắc (đến vòng 2 của tỉnh).
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được coi trọng. Trạm Y tế của xã được xây dựng từ năm 1962, nay đã thành lập tổ chế biến dược liệu, thực hiện "Người Nam dùng thuốc nam", chữa bệnh bằng phương pháp đông, tây y kết hợp. Công tác đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ được quan tâm. Một số cán bộ của trạm xã đã được cử đi học để về phục vụ cho Trạm và chăm sóc sức khỏe nhân dân như ông Nguyễn Cảnh Chất…
Vào cuối tháng 3/1967, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ 7 nhiệm kỳ 1967-1969 được tổ chức  tại lớp học sơ tán (có hầm hào trú ẩn) ở xóm Mỹ Sơn. Đại hội đã tiến hành kiểm điểm đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội trong nhiệm kỳ vừa qua trên hai mặt công tác là sản xuất và chiến đấu. Đồng thời Đại hội cũng xác định phương hướng nhiệm vụ trong hai năm tới với những chỉ tiêu như: Nâng cao năng suất trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi; Phát động trồng cây công nghiệp, đẩy mạnh trồng trỉa rau, đậu, lạc, vừng để xuất khẩu với khẩu hiệu "Lạc là gang thép”; Củng cố các tổ chức ngành nghề tăng doanh thu cho tập thể và tăng giá trị ngày công cho xã viên. Đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Diên được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Cảnh Nhượng làm Phó Bí thư trực, đồng chí Nguyễn Thị Kim và đồng chí Thái Bá Cảnh được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã. Đến tháng 4/1968, đồng chí Nguyễn Xuân Diên chuyển sang làm Trực Đảng, đồng chí Phan Đăng Lẫm lên làm Chủ tịch xã.
Hai hợp tác xã Trần Phú, Hồng Phong được sáp nhập thành hợp tác xã Phong Phú, ông Nguyễn Văn Thụy được bầu làm Chủ nhiệm. Sau khi được thành lập hợp tác xã đã tổ chức xây dựng các lò gạch, ngói để phục vụ cho các công trình của tập thể và bà con xã viên. Về chăn nuôi, hợp tác xã xây dựng một khu chuồng lợn tập thể có 150 con gồm lợn thịt và lợn nái. Nhờ có sự tập trung chỉ đạo của Ban quản trị hợp tác xã nên trại lợn phát triển tốt, sản lượng lợn thịt và lợn giống đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và đóng góp chi viện chiến trường.
Sau Đại hội, hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân trồng cây của Bác Hồ, Uỷ ban hành chính phối hợp với Hội Phụ lão xã thành lập một tổ chuyên trách gồm các cụ chuyên trồng và ươm cây. Cây xanh được các cụ trồng khắp trên các đồi trọc. Thực hiện khẩu hiệu "Ông trồng cháu chăm", mỗi em học sinh nhận chăm bón một cây xanh. Về sau số cây phi lao và bạch đàn đó tập thể đã thu hoạch và sử dụng được nhiều việc hữu ích. Bên cạnh đó, toàn xã đã dấy lên phong trào làm thủy lợi sôi nổi, tích cực. Bằng những phương tiện thô sơ như xe cút kít, xe Kiến An, lực lượng thanh niên được huy động đắp đập tu bổ mương máng. Tất cả mọi người đều thấy rõ việc làm thủy lợi sẽ đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người dân, nên ai nấy đều phấn khởi, tự giác làm việc hết sức mình.
Ngành y tế vận động ăn chín uống sôi, diệt ruồi muỗi, tham mưu tổ chức phát động phong trào "Sạch làng tốt ruộng", mỗi hộ phải có một vò nước tiểu để tận dụng mọi nguồn phân bón vừa làm sạch môi trường. Nhân dân phấn khởi tự giác thực hiện.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta liên tục giành được những thắng lợi to lớn, dồn dập làm nức lòng đồng bào cả nước. Tháng 1/1968, hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chủ trương tổng tiến công đồng loạt, bắt đầu từ những ngày tết Mậu Thân. Cuộc tổng tiến công nổ ra trên khắp các thành phố, đô thị ngay tận sào huyệt của bọn đầu sỏ ác ôn ngụy quân, ngụy quyền, dồn bọn địch vào thế bị động, chống đỡ lúng túng, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của địch.
Trong lời kêu gọi đồng bào cả nước Bác Hồ đã khẳng định quyết tâm "Hễ còn một tên xâm lược Mỹ trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi…". Lời kêu gọi của Bác đã làm nức lòng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, từ đó quyết tâm chiến đấu đến cùng cho độc lập tự do của Tổ quốc, khẳng định niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Tháng 4/1968, đảng viên, cán bộ, nhân dân xã Hồng Sơn được quán triệt Nghị quyết số 175 của Trung ương Đảng về tình hình và nhiệm vụ mới. Nghị quyết thông báo tình hình ở chiến trường miền Nam ta tiến công liên tục, đều khắp và giành được thắng lợi dồn dập, giòn dã. Nghị quyết đã xác định nhiệm vụ cụ thể ở hậu phương cho từng địa phương. Nội dung chính là "Gạo không thiếu một hạt, quân không thiếu một người". Mỗi đảng viên, cán bộ đều tự kiểm điểm về việc đóng góp cho cách mạng của cá nhân mình, gia đình mình. Sau cuộc học tập này mỗi người đều thể hiện bằng những hành động cụ thể như: Thanh niên phát động phong trào "Ba sẵn sàng", Phụ nữ phát động phong trào "Ba đảm đang", Chính quyền phát động phong trào "Toàn dân phòng tránh và đánh địch". Vì thế, hệ thống hầm hào tiếp tục tu sửa, đào thêm ở dọc đường, ngoài vườn, trong nhà. Các hầm cất giấu tài liệu, lương thực được tu bổ chắc chắn. Mỗi hộ có một tủ thuốc cấp cứu, sơ cứu. Đặc biệt trong phong trào “Ba đảm đang” hội phụ nữ xã Hồng Sơn giai đoạn 1967-1968, được tỉnh hội Nghệ An tặng Bằng khen, hàng năm đều được huyện khen thưởng. Về cá nhân, thời gian này có chị Nguyễn Thị Minh Huệ được Trung ương Hội Phụ nữ tăng Huy chương Vì sự nghiệp.
Là xã nằm trên trục đường 15A nên Ban chỉ huy tác chiến xã nhận định: Hồng Sơn sẽ trở thành trọng điểm đánh phá của máy bay địch trong thời gian tới. Nhận định đó hoàn toàn đúng với thực tế diễn ra trong thời gian sau. Cụ thể vào tháng 6/1968, đúng giờ nghỉ trưa máy bay địch đánh bom vào lán ở của công nhân Công trường khai thác đá ở Nhà Ven làm 19 công nhân hi sinh; cuối năm 1968, máy bay địch nhiều lần đánh vào cầu Gạc Nai… gây ra nhiều thiệt hại về tài sản cho nhân dân.
Sự gieo rắc tội ác của bọn địch đã phải đền tội. Sự gieo rắc cái ác của bọn địch đã phải đền tội. Chiều ngày 18/5/1968, trên bầu trời xã Hồng Sơn, một chiếc máy bay trinh sát A3.J Mỹ bị trận địa pháo 100 ly ở cây Da Bu (xã Tràng Sơn) bắn đứt đôi, hai khối lửa từ trên trời rơi xuống, đồng thời 2 chiếc dù bật ra lơ lửng trên không trung; xác máy bay rơi ở xã Giang Sơn. Nhân dân xã Hồng Sơn lúc này già, trẻ, gái, trai, dân quân, thanh niên, phụ nữ… bất kể đang ở nhà hay sản xuất ở ngoài đồng, trong tay ai cũng có vũ khí thô sơ (cuốc, rạ, gậy, đòn gánh…) hướng theo 2 chiếc dù rơi để bắt giặc lái. Mặc cho máy bay quần đảo, gầm rú hòng cứu phi công và trấn áp nhân dân. Chưa đầy 15 phút sau, rất đông người đã có mặt ở động Cửa Trại. Xã đội nhanh chóng tập hợp lực lượng, phối hợp với các tổ chức phân công làm 2 mũi, theo hướng 2 chiếc dù rơi. Tại cồn Cửa Trại, ở phía đông ta đã phát hiện ra tên giặc lái, mọi người đã nhanh chóng tóm gọn khi nó đang cố trốn vào bụi rậm; ở phía tây, ta phát hiện tên giặc lái đã chết. Theo phân công của Xã Đội, một bộ phận đưa tên giặc lái bị chết chôn ở Cửa Truông, một bộ phận giải tên giặc lái còn sống về tạm giữ tại nhà ông Trương Văn Hội (ông Huân). Máy bay Mỹ quần đảo suốt buổi chiều, không cứu được phi công cuối cùng cũng phải rút đi. Chập tối, ta lại đưa tên phi công ra nhà Cố Nhuận đề phòng Mỹ phát hiện và giải thoát hoặc nhân dân đập chết; đêm hôm đó, dân quân ta cho tên giặc lại ngồi lên xe cải tiến, cho đọi nón, quàng ni lông để ngụy trang rồi dẫn giải lên bàn giao cho Huyện đội tại xã Lạc Sơn. Sau chiến công này, xã được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và một cờ quyết thắng.
Sau trận 18/5/1968, Mỹ càng đánh phá ác liệt Ba Ra Đô Lương, xã Hồng Sơn lúc này, thanh niên, dân quân tham gia cùng bộ đội khẩn trương đào đắp làm trận địa pháo 100 ly tại Chọ Rốc; làm nhà trạm xá Trung đoàn 222 tại Đội 5 HTX Phong Phú (xóm Thái Sơn), vận chuyển thương binh, chôn cất liệt sĩ (làm nghĩa trang tạm ở đường sang cồn Nhà Xang, Cân Thủy). Xưởng Quân giới tại Núi Bèo bị máy bay đánh bom, thanh niên và dân quân ở Đội 1 (xóm 1) đã kịp thời ra phối cùng đơn vị dìu thương binh, cáng liệt sĩ (có 2 bộ đội hy sinh) về nơi tập kết; dập lửa các nhà để thiết bị, máy móc, súng… bị cháy.
Bị thua đau ở cả hai miền Nam - Bắc, ngày 1/11/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bon bắn phá miền Bắc vô điều kiện, nhân dân Hồng Sơn lại cùng với nhân dân các nơi khác bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế, sẵn sàng đánh bại những âm mưu mới của kẻ thù, tiếp tục chi viện cho đồng bào miền Nam. Khắc phục hậu quả do bom Mỹ gây ra là một nhiệm vụ nặng nề, trong đó việc cấp bách nhất là sửa chữa nhà cửa, các công trình và tháo gỡ bom nổ chậm còn vương vãi ở nhiều nơi. Lãnh đạo xã đã tích cực tìm nhiều biện pháp nhằm huy động, cung cấp vật liệu để nhân dân sửa chữa nhà ở, chỉ đạo các đơn vị dân quân tổ chức tháo gỡ bom nổ chậm, sửa chữa đường sá, cầu cống, kênh mương, cải tạo đồng ruộng để phục vụ cho sản xuất và việc đi lại của bà con.
Trong thời gian từ 1965-1968, Đoàn xã Hồng Sơn đã tổ chức nhiều đợt học tập chính trị, phát động đoàn viên, thanh niên học tập theo gương các anh hùng liệt sĩ: Nguyễn Văn Trỗi (bài thơ “Hãy nhớ lấy lời tôi” của Tố Hữu, tác phẩm “Sống như anh” của Trần Đình Vân), Trần Hữu Bào (trong trận đánh kỷ lục 1 thắng 40 giữa bộ đội Việt Nam với lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh, trong trận đánh này có anh Bùi Trọng Phiệt người Hồng Sơn đã anh dũng hy sinh), Phan Hành Sơn (trận đánh oai hùng ở đồi Non Nước)… Phát động phong trào Thanh niên ba sẵn sàng, qua học tập nhiều anh chị em thanh niên lớn tuổi (dưới 37 tuổi) đã xuất đoàn, nay quay trở lại tham gia phong trào. Trong các phong trào ở địa phương lúc này, lưc lượng thanh niên đóng vai trò xung kích, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, “Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng nhập ngũ. Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào. Sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến”. Sau các đợt học tập chính trị, Đoàn xã tổ chức ra quân làm thủy lợi ở Cánh Diều và Động Cồn Nương, 2 đợt ra quân này là điển hình phong trào thanh niên lúc bấy giờ với tinh thần “chiến dịch Khe Sanh” trên đất Hồng Sơn và “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”. Đoàn viên, thanh niên ngày làm việc bằng hai, nhiều sáng kiến đã được thực hiện: chở máy bơm nước Đông Phong theo đường 15, đến Bãi Dâu thì đẩy cả xe cả máy qua khe sang Cánh Diều để bơm nước. Đưa nước qua Cồn Nương về tưới cho Đồng Chăm được làm thành nhiều bậc, có bậc thì dùng gàu giai tát liên tục, có bậc thì dùng máy bơm. Đồng thời nhiều đêm tổ chức sinh hoạt văn nghệ, làm báo tường và đọc cho mọi người cùng nghe; qua đó khí thế thanh niên càng sôi nổi; đã có nhiều bài thơ, bài viết nói về phong trào Đoàn, nói về dòng nước mát rất hay. Cuối cùng thì Cánh Diều và Đồng Chăm cũng trở thành ruộng lúa cho năng suất cao, góp phần hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ huyện giao.
Tháng 5/1969, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 8 nhiệm kỳ 1969-1971, được tiến hành. Đại hội tổng kết những thành tích đạt được, những yếu kém, khuyết điểm trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội đã đề ra phương hướng cho nhiệm kì mới đặc biệt là xây dựng nền kinh tế Hợp tác xã, phát huy những thành tích đã đạt được trong hai năm xây dựng mô hình Hợp tác xã bậc cao. Các nhiệm vụ cụ thể được Đại hội đề ra đó là: Tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh; ổn định đời sống nhân dân; tập trung xây dựng hệ thống kênh mương, đảm bảo nước tưới cho sản xuất; tăng cường đưa giống mới vào canh tác; tập trung xây dựng cơ sở vật chất cho Hợp tác xã, tích cực san lấp hố bom, khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích; tăng cường quản lý kinh tế, tiết kiệm, tăng năng suất lao động; nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu vào chức vụ Bí thư, đồng chí Trần Thị Dung được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Dương Văn Lân được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Nguyễn Thị Kim và đồng chí Võ Viết Tựa được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch xã. Đến cuối năm 1970, đồng chí Nguyễn Thị Huệ làm Phó Chủ tịch thay đồng chí Nguyễn Thị Kim chuyển làm công tác khác.
Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy Nghệ An và Huyện ủy Đô Lương, Hồng Sơn đã tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp một cách tích cực, đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất. Các cánh đồng 2 vụ lúa được tăng cường về thủy lợi, phân bón, nuôi bèo hoa dâu, cấy giống mới. Diện tích lúa xuân được mở rộng và đạt năng suất cao, mở ra triển vọng về thâm canh cây lúa. Nhờ kết hợp việc cải tạo đồng ruộng, mở rộng diện tích, đưa giống mới và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên tổng sản lượng lương thực hàng năm tăng nhanh. Bên cạnh đó, Hồng Sơn còn chỉ đạo Cửa hàng mua bán đổi mới cung cách làm việc, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân. Hợp tác xã Tín dụng và Mua bán vận động xã viên mua thêm cổ phần. Hợp tác xã nông nghiệp quy mô lớn toàn xã được thành lập, ông Nguyễn Xuân Diên được bầu làm Chủ nhiệm.
Vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, thủ công nghiệp, kho tàng được phục hồi và nâng cấp. Các tuyến đường liên xã, liên xóm, giao thông nội đồng, hệ thống mương máng, cầu cống thủy lợi được sửa chữa, củng cố. Các hợp tác xã đã xây dựng thêm các nhà kho, sân phơi, kho giống, kho phân, kho thuốc trừ sâu và phân hóa học để phục vụ sản xuất và bảo quản lương thực. Công tác chăn nuôi được đẩy mạnh kể cả hình thức chăn nuôi tập thể và hộ gia đình. Công tác ăn chia phân phối cơ bản được làm tốt theo chính sách của Nhà nước. Đời sống vật chất, tinh thần cuả nhân dân được nâng lên.
Giữa lúc đồng bào cả nước đang phấn khởi, hăng hái thi đua lao động sản xuất và chiến đấu chống Mỹ nhằm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc thì ngày 2/9/1969[31], Bác Hồ kính yêu đã đi vào cõi vĩnh hằng. Tin Bác mất đã gây ra sự xúc động, tiếc thương vô hạn trong toàn Đảng, toàn dân. Biến đau thương thành hành động, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã dấy lên một phong trào thi đua làm theo lời Bác hết sức sôi nổi và thiết thực. Thực hiện chủ trương cuả Huyện ủy, Hồng Sơn đã xây dựng các công trình “Đời đời nhớ ơn Bác”, phát động phong trào “Ao cá Bác Hồ”, “Tết trồng cây”, đẩy mạnh “Cuộc vận động lao động sản xuất”, “Sống chiến đấu lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “Tăng cường chế độ làm chủ ở nông thôn”, “Nâng cao chất lượng đảng viên”... qua đó thu được nhiều kết quả tích cực trên mọi lĩnh vực.

[31].  Vì một số lý do mà lúc đó Trung ương Đảng báo tin Bác mất vào ngày 3/9/1969

Tháng 1/1970, Hội nghị lần thứ 18 của Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định quyết tâm đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Địch liên tiếp bị đòn đau trên khắp các chiến trường buộc phải ngồi vào đàm phán ở hội nghị bốn bên tổ chức ở Pari thủ đô nước Pháp. Địch phải cay đắng chấp nhận đình chiến, ngừng hoàn toàn các hoạt động đánh phá miền Bắc. Đây là một cơ hội thuận lợi cho ta tranh chấp thời gian củng cố hậu phương. Thời gian này, xã Hồng Sơn ra quân làm thủy lợi, cải tạo đồng ruộng ở đồng chợ Rốc, cồn Lác, cồn Rỏi... Bằng các phương tiện thủ công nhưng nhân dân đã xẻ núi làm được hệ thống mương thủy lợi lấy nước từ khe Bạc về vùng ruộng Soi.
Đầu năm 1971, Đảng bộ xã Hồng Sơn tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ 9 nhiệm kỳ 1971-1973, với sự tham gia của 97 đảng viên. Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ tới. Nhiệm vụ cụ thể được Đại hội đề ra là: Về nông nghiệp: tăng cường thâm canh tăng năng suất, chú trọng khâu kỹ thuật và phân bón, quyết tâm giành vụ đông-xuân thắng lợi. Chăn nuôi: Chú trọng phát triển chăn nuôi tập thể. Củng cố và tổ chức huấn luyện tốt cho lực lượng dân quân. Tổ chức phòng tránh, đánh địch có hiệu quả; khâu quan trọng vẫn là tu sửa củng cố hầm hào. Hoàn thành với quyết tâm cao nghĩa vụ người và của cho chiến trường. Tiếp tục củng cố thật vững 3 loại hợp tác xã.
Đại hội bầu 9 đồng chí vào Ban Chấp hành, đồng chí Hoàng Văn Thụy giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Lê Văn Nghĩa giữ chức vụ Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Trần Thị Dung làm Phó Bí thư trực, đồng chí Vương Đình Lục làm Phó Chủ tịch xã. HTX nông nghiệp được kiện toàn và bầu ông Tăng Văn Tâm làm Chủ nhiệm.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, trong những năm 1971- 1972, sản xuất nông nghiệp giành thắng lợi lớn kể từ khi xây dựng hợp tác xã cho đến thời điểm này. Nguyên nhân là nhờ du nhập các giống lúa mới như Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8; cán bộ có trình độ thâm canh; các nguồn phân bón được tận dụng tốt, đáng kể là công tác làm bèo hoa dâu; tăng cường khâu chống độ PH. Bên cạnh đó, là thời tiết thuận lợi, điều kiện tưới tiêu đảm bảo. Tổng sản lượng lương thực vượt 120 tạ so với năm 1971. Giá trị ngày công của xã viên đạt 7kg/công. Ba lợi ích Nhà nước, tập thể và xã viên đều được đáp ứng một cách hài hòa.
Thực hiện ý đồ dùng sức mạnh quân sự để gây sức ép với ta trên bàn đàm phán tại Pari bị gián đoạn từ tháng 3 năm 1972, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ lại mở cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Ở Đô Lương, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ lại càng ác liệt hơn so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1972 máy bay Mỹ đã nhiều lần ném bom xuống các xã như Thịnh Sơn, Hoà Sơn, Tràng Sơn, Đà Sơn, Trung Sơn, Nhân Sơn, Giang Sơn, Hồng Sơn, Đại Sơn… trong đó có cả việc ném bom rải thảm bằng máy bay B52. Vì thế, giai đoạn này, để kịp thời báo động cho nhân dân và lực lượng chiến đấu của bộ đội, cấp trên đã quyết định đặt 2 trạm đường dây hữu tuyến ở xã Hồng Sơn để làm nhiệm vụ cung cấp thông tin khi máy bay B52 tới ném bom. Hai trạm này gồm có một trạm dân sự (đóng ở trường mầm non hiện này) và một trạm quân sự (đóng ở xóm 3), các trạm này đến năm 1989, mới chuyển đi nơi khác.
Ở Hồng Sơn, từ tháng 10 đến tháng 12/1972, dọc đoạn đường chiến lược 15A qua đoạn cầu Mương, cầu Nghiêng và đường 15A liên tục bị máy bay Mỹ đánh phá. Điển hình như trận đánh vào tháng 10/1972, một quả róc-két bắn trúng vào nhà ông Nguyễn Văn Đào làm chết 5 mẹ con và 1 công nhân; một loạt bom phá thả vào Cầu Nghiêng, 1 quả rơi trúng nhà ông Mai Văn Thẩn (do hầm hào trú ẩn vững chắc nên không thiệt hại về người, chỉ thiệt hại về tài sản). Trận đánh nguy hiểm nhất là vào ngày 24/12/1972, Mỹ đã dùng máy bay B52 rải thảm từ xã Bồi Sơn qua xã Hồng Sơn với 566 quả bom gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân 2 xã.
Trước những thiệt hại do bom Mỹ gây ra, với truyền thống "Là lành đùm lá rách", tinh thần đoàn kết, tương trợ, tình hữu ái giai cấp, nhân dân toàn xã đã tận tình giúp đỡ những gia đình bị nạn. Kết quả toàn xã đã huy động được hàng ngàn cái tranh, hàng trăm cây tre, gỗ, gạo để giúp những gia đình không may. Ngoài ra còn quần áo, đồ dùng gia đình, không kể ngày công làm và sửa chữa lại nhà ở và chuồng gia súc.
Qua khói lửa đạn bom của đế quốc Mỹ, tinh thần bất khuất, kiên cường của cán bộ và nhân dân, nhất là lực lượng thanh niên, dân quân được tôi luyện và ngày càng nâng lên. Trong đau thương hoạn nạn, tinh thần đoàn kết, tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau cuả người dân Hồng Sơn càng được chứng tỏ. Sau mỗi trận đánh phá của đế quốc Mỹ, khi vừa ngớt tiếng bom lập tức lãnh đạo xã huy động lực lượng dân quân hàng trăm người xông ra cứu người và tài sản cùng với bà con làng xóm tập trung khắc phục hậu quả, mai táng những người chết, cấp cứu những người bị thương và đóng góp nguyên vật liệu, công sức sửa chữa nhà ở cho các hộ gia đình bị nạn để họ có nơi ăn chốn ở, ổn định lại cuộc sống. Nhiều tấm gương dũng cảm, hết lòng vì nhân dân đã xuất hiện trong chiến đấu như đồng chí Nguyễn Thị Kim. Trong khói lửa đạn bom, hầu như nơi nào có bom Mỹ đánh phá thì nơi đó có đồng chí Nguyễn Thị Kim. Sau trận đánh vào lán ở của công nhân Công trường đá ở Nhà Ven, đồng chí Nguyễn Thị Kim đã huy động dân quân phối hợp với Ban chỉ huy công trường và lực lượng dân quân tổ chức mai táng cho 19 liệt sỹ hi sinh. Với các thành tích đó, đồng chí Nguyễn Thị Kim đã được Tỉnh đội Nghệ An tặng 1 Bằng khen, huyện đội Đô Lương tặng 3 giấy khen. Qua khó khăn thử thách, đội ngũ lãnh đạo và cán bộ xã không ngừng được tôi luyện, trưởng thành cả về phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm, ngày càng nâng cao tinh thần trách nhiệm, được Đảng bộ và nhân dân tin yêu, tín nhiệm.
Từ ngày 18 đến 30/12/1972, đế quốc Mỹ dùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, trong đó có máy bay B52 đánh vào Thủ đô Hà Nội - trái tim của Tổ quốc. Quân và dân ta đã chủ động sẵn sàng đón chúng và giáng trả những đòn đích đáng. Sau 12 ngày đêm chiến đấu kiên cường bất khuất, quân và dân Hà Nội đã bắt bọn giặc trời phải đền tội, 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52 đã bị bắn hạ. Thắng lợi oanh liệt đó đã làm nức lòng đồng bào cả nước, làm cho kẻ thù khiếp sợ và thế giới phải khâm phục.
Bị thất bại nặng nề trên các chiến trường, đặc biệt là trong trận “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội, ngày 30/12/1972, chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá từ vĩ tuyến 20 trở ra và đến ngày 15/1/1973, thì ngừng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền Bắc. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấp dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đã chính thức được ký kết.
Sau Hiệp định Pari, Mỹ cút nhưng ngụy chưa nhào, nhân dân Hồng Sơn lại cùng với nhân dân miền Bắc bước vào thời kỳ mới - thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, khôi phục và phát triển kinh tế, dốc sức chi viện cho tuyền tuyến miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước.

IV. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA, DỒN SỨC CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1973-1975)

Tháng 3/1973, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 10 nhiệm kỳ 1973-1975, được tiến hành. Đại hội đã kiểm điểm tình hình trong 2 năm qua và xác định nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân Hồng Sơn trong thời gian tới là: Đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam một cách mạnh mẽ, đầy đủ và kịp thời, đồng thời Đại hội đề ra những nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thế quần chúng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Diên được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Trần Thị Dung được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư trực, đồng chí Lê Dức Dung được bầu làm Phó Chủ tịch xã. HTX nông nghiệp được kiện toàn, bầu ông Nguyễn Văn Trâm làm Chủ nhiệm.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ ngay từ đầu năm 1973, Đảng bộ, chính quyền xã Hồng Sơn đã lãnh đạo nhân dân toàn xã tiếp tục tập trung khắc phục hậu quả do bom Mỹ gây ra. Đó là việc tiến hành san lấp hố bom, sửa chữa đường sá, xây dựng lại nhà cửa của nhân dân và các công trình khác. Đường sá, cầu cống, bờ vùng, bờ thửa cũng được sửa chữa cải tạo. Công tác sản xuất từng bước đi vào ổn định, các hợp tác xã đã tích cực chỉ đạo thực hiện các biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất, sản lượng lúa và hoa màu, việc chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng kể cả hình thức tập thể và hộ gia đình, từ đó đã góp phần tăng nhanh đàn lợn, đàn trâu bò, gà vịt … Cuối năm 1973, để thí điểm tổ chức sản xuất lớn, huyện điều động đội máy cày của huyện về làm thí điểm tại xã Hồng Sơn. Nhưng sau một thời gian làm thí điểm, đội máy cày không phát huy được tác dụng nên phải dùng và nhân dân lại quay trở lại tổ chức cày bằng tay.
Thời điểm này, toàn xã Hồng Sơn lao động được phân bổ hợp lý. Đội công trình 202 do Huyện quản lý điều hành gồm 30-40 người. Đội thủy lợi 2 do xã quản lý, điều hành gồm 60-70 người. Căn cứ vào tay nghề hợp tác xã phân bổ lại nhân lực cho các tổ ngành nghề một cách hợp lý hơn.
Cùng với việc khắc phục hậu qủa chiến tranh, Hồng Sơn còn tiến hành xây dựng một số công trình phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội như xây dựng trường học với hàng chục phòng, tạo điều kiện thuận lợi cho con em học tập, góp phần nâng cao chất lượng, mở mang dân trí. Năm 1974, trường cấp 1 được xây dựng kiên cố 8 phòng học lợp ngói. Thời gian này, trường do thầy Đẩu làm hiệu trưởng.
Công tác xây dựng đảng vẫn luôn được quan tâm. Trong giai đoạn từ 1973-1975, Đảng bộ đã kết nạp được 12 đảng viên mới, chất lượng đảng viên và tổ chức Đảng ngày càng được nâng lên.
Nghĩa vụ đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến luôn được Hồng Sơn hoàn thành tốt. Hàng năm xã Hồng Sơn có từ 10 đến 11 thanh niên lên đường nhập ngũ và không có ai đào ngũ.
Tháng 3 năm 1975, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 11 nhiệm kỳ 1975-1977, được tổ chức tại nhà kho Hợp tác xã Minh Sơn với sự tham gia của 135 đảng viên. Đại hội đã quán triệt đường lối chung của cả nước, các Nghị quyết của huyện uỷ, tỉnh uỷ từ đó Đảng bộ xã Hồng Sơn đã căn cứ, áp dụng thực hiện ngay tại địa phương mình với các phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu, biện pháp phát triển về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng…, từng bước ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân.
 Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Chiến là cán bộ huyện điều về được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Thị Dung được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Lê Đức Dung được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Trần Văn Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Sau Đại hội, HTX NN cũng được kiện toàn, ông Nguyễn Quốc Trâm tiếp tục được bầu làm Chủ nhiêm.
Một trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam được mở ra. Bắt đầu từ ngày 10/3/1975, sau tiếng súng mở màn vào Buôn Ma Thuột ta đã áp đảo hoàn toàn bọn địch. Tiếp đó là Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, các thành phố, đô thị lần lượt nổi dậy với thế mạnh như chẻ tre. Bọn ngụy quân bị tiêu diệt và xua đuổi, chính quyền ngụy quyền Sài Gòn tan rã từng mảng. Ngày 30/4/1975, với khẩu hiệu chỉ đạo của Trung ương: "Thần tốc thần tốc, đại thần tốc" quân ta đã đột nhập được vào dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của địch. Lá cờ của ngụy quyền bị vứt bỏ thay vào đó lá cờ của cách mạng miền Nam. Chính quyền ngụy Sài Gòn đã phải chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đến đây quân và dân  ta đã thực hiện trọn vẹn lời chức mừng năm mới 1969 của Bác Hồ: "Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào".
Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng, cuộc cách mạng giải phóng miền Nam qua bao hy sinh gian khổ đã hoàn toàn thắng lợi. Non sông Việt Nam sau 21 năm bị chia cắt nay thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà. Trong niềm vui lớn lao của cả nước, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn vô cùng phấn khởi, tự hào vì đã đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi chung.
Trong 21 năm trường kỳ kháng chiến, mọi nghĩa vụ đóng góp sức người, sức của đều được Hồng Sơn hoàn thành vượt mức trên giao. Toàn xã có trên 200 thanh niên lên đường tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong đó có 39 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh, nhiều người mang thương tật suốt đời và mất sức lao động.
Trong những năm đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, địa bàn Hồng Sơn nhỏ bé đã phải chịu hàng chục trận oanh tạc của không quân Mỹ. Hàng chục người dân, trong đó có một trẻ em đã bị chết, bị thương vì bom đạn của kẻ thù. Thiệt hại về tài sản có trên 127 con lợn, hàng chục con trâu, bò bị chết, 1 trại chăn nuôi lợn bị xóa sổ, nhiều nhà dân bị hư hỏng nặng.
Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn mãi mãi biết ơn và vô cùng thương tiếc những người con đã ngã xuống, cống hiến xương máu, sức lực và tuổi xuân vì nền độc lập tự do của dân tộc; mãi mãi ghi công các gia đình có công với cách mạng, những gia đình luôn đi đầu và chịu mất mát đau thương. Trải qua gian nan thử thách của cuộc chiến tranh, cán bộ đảng viên và nhân dân Hồng Sơn ngày càng được tôi luyện, trưởng thành. Không có kẻ thù nào, không có gian khổ nào có thể làm nao núng tinh thần và ý chí cách mạng của người dân Hồng Sơn.
Nhờ những đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân, con em Hồng Sơn đã được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều Huân, Huy chương các loại. Trên mặt trận sản xuất và xây dựng quê hương, Hồng Sơn cũng lập được nhiều thành tích đáng tự hào. Ba ngọn cờ hồng (hợp tác xã nông nghiệp, mua bán, tín dụng) trong chiến tranh vẫn vững vàng và ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt trong phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, Hồng Sơn luôn xứng đáng là 1 trong 5 xã có thành tích tốt nhất của tỉnh về nuôi bèo hoa dâu. Trong công tác ý tế, xã Hồng Sơn là 1 trong hai xã của huyện Đô Lương được tỉnh Nghệ An chọn làm điểm và vinh dự được nhận Bằng khen của Bộ Y tế về công tác vệ sinh phòng bệnh và bài trừ bệnh sốt rét giai đoạn 1962-1963.
Qua khói lửa chiến tranh, Đảng bộ xã Hồng Sơn ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh. Từ 60 đảng viên năm 1953, Đảng bộ đã có hơn 150 đảng viên vào năm 1975. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân ngày càng khăng khít. Vai trò, chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên không ngừng được nâng lên. Mỗi đảng viên luôn luôn gương mẫu trước quần chúng, luôn đi đầu trong mọi thử thách khó khăn và nguy hiểm. Đó là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ Hồng Sơn lãnh đạo nhân dân bước tiếp trên con đường cách mạng bảo vệ và xây dựng Tổ quốc dưới ánh sáng dẫn đường của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

Chương năm

ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN HỒNG SƠN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG 10 NĂM SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (1975 – 1985)

I – TIẾP TỤC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1980)

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc bằng thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn, non sông thu về một mối, đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Trong niềm hân hoan phấn khởi chung đó, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn sung sướng tự hào tận hưởng không khí hòa bình độc lập tự do và nêu cao quyết tâm xây dựng cuộc sống mới, xây dựng quê hương, đất nước.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước nói chung, Hồng Sơn nói riêng, hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề. Trong kháng chiến chống Mỹ, hầu hết nhân tài vật lực phải tập trung cho tiền tuyến để đánh thắng kẻ thù nên Hồng Sơn cũng như các nơi khác chưa có điều kiện để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật của địa phương còn nghèo nàn, lạc hậu, yếu kém, trụ sở Đảng ủy còn đóng trong nhà dân(nhà ông Dinh). Đời sống nhân dân còn thấp lại bị thiên tai thường xuyên hoành hành, đe dọa nên càng khó khăn. Đặc biệt, 2 cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của đế quốc Mỹ đã gây cho Đô Lương nói chung, Hồng Sơn nói riêng những tổn thất nặng nề. Các công trình của tập thể và cá nhân như kho tàng, nhà cửa, đường sá, cầu cống, trụ sở làm việc, tư liệu sản xuất một số bị tàn phá hoặc hư hỏng, xuống cấp. Sản xuất bị đình trệ do chiến tranh, trình độ canh tác, việc tiếp thu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của bà con còn chậm nên năng suất, sản lượng cây trồng thấp. Chăn nuôi phát triển chưa mạnh do thiếu vốn và kỹ thuật. Từ đó thu nhập của người dân nhìn chung còn thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong những năm cuối thập kỷ 70 là đưa nông thôn, nông nghiệp phát triển toàn diện. Khẩu hiệu chung được đề ra là: Tất cả cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng CNXH; Tất cả để bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng bộ Hồng Sơn có chủ trương tập trung cải tạo ruộng đất để phát triển trồng trọt, phát triển chăn nuôi. Để hỗ trợ cho sản xuất, các biện pháp đã được đề ra. Trong đó chú trọng vào hai khâu thủy lợi và nuôi bèo hoa dâu. Cây bèo dâu được đặt vị trí hàng đầu trong phân bón hữu cơ. Nhiệm vụ nuôi, trồng, ủ bèo hoa dâu do toàn thể bà con xã viên đảm nhiệm trong đó Đoàn Thanh niên đóng vai trò nòng cốt. Vì thế, giai đoạn này năng suất bèo hoa dâu rất cao, đạt 5 tấn/ha.  Chính vì vậy, trogn phong trào bèo hao dâu, Hồng Sơn luôn là đơn vị đi đầu của huyện Đô Lương. Toàn xã dấy lên một phong trào làm phân xanh sôi nổi, rộng khắp. Đi đầu trong công tác này vẫn là Đoàn Thanh niên. Để phong trào đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao, Huyện đã cử cán bộ kỹ thuật về hỗ trợ, giúp Hồng Sơn có điều kiện thực hiện tốt. Các chỉ tiêu đều được tổ chức bàn luận dân chủ đến các đội sản xuất để triển khai thực hiện. Trong công tác thủy lợi, xã tập trung tu sửa các hồ đập nhỏ nhằm tạo sự kiên cố, vững chắc cho thân đập. Các hộ xã viên đã dùng xe cải tiến do sức người kéo để vận chuyển đá đóng góp cho hợp tác xã. Bên cạnh đó xã còn tổ chức nạo vét kênh mương, cải tạo đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa phục vụ sản xuất thâm canh.
Để phục vụ cho việc vận chuyển phân bón, sản phẩm nông nghiệp, từ đó giúp giải phóng đôi vai cho người nông dân và góp phần tăng năng suất lao động ???. Nhờ những cố gắng trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù phải trải qua rất nhiều khó khăn như thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt, hết hạn hán đến lụt bão, lúa màu sâu bệnh phá hoại, vụ mùa năm 1976, nạn rầy nâu đã làm cháy hàng chục ha lúa, nhưng sản lượng lương thực của Hồng Sơn qua từng năm được nâng lên.
Tháng 11/1977, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 12 nhiệm kỳ 1977-1979, được tổ chức tại nhà kho Đội 1 (xóm Minh Sơn) với sự tham gia của 140 đảng viên. Đại hội đã đề ra phương hướng: Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thay đổi giống mới có năng suất cao, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề, tổ chức di dời dân để lấy đất sản xuất nông nghiệp; quy hoạch lại các khu dân cư; tu sửa các hệ thống mương thuỷ lợi nội đồng, xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân xã, xây dựng sân vận động...
Đại hội đã bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Phạm Ngọc Xuyến được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Văn Tụng được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Trần Văn Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Sau Đại hội, HTX NN được kiện toàn, ông Hoàng Văn Thụy được bầu làm Chủ nhiệm.
Thời gian này, Hồng Sơn đã huy động nhân lực, tham gia nhiều đợt với số lượng 40-150 người mỗi đợt, đóng góp hàng ngàn ngày công cho các công trình thủy lợi của tỉnh như Vách Bắc (xã cử 150 người đi tham gia, đồng chí Nghĩa, đồng chí Lậm, đồng chí Bình được cử làm trưởng ban), Vực Mấu, sông Nghèn, Kẻ Gỗ (xã cử 40 người đi tham gia và cử đồng chí Trương Công Thìn làm trưởng đoàn). Ở huyện có công trình đê Phượng Kỷ, làm mương tiêu úng trên cánh đồng mười tấn ở Văn Sơn, Yên Sơn, đi xây cống Hiệp Hòa (xã cử 42 người đi tham gia)… Trong các đợt đi làm, lực lượng của xã Hồng Sơn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nhiều lần được huyện khen thưởng. Đơn cử như trong công trình Vách Bắc, lực lượng của xã được huyện trao cho vinh dự là khơi dòng chảy đầu tiên để đưa nước về phục vụ cho nhân dân. Năm 1979, nhân dân xã Hồng Sơn còn tham gia đi chống lụt đê Nam – Bắc – Đặng, tiếp đó tham gia làm đập Bàu Nại, đập Liên Sơn, đi chuyển nhà cho nhân dân Ngọc – Lam - Bồi. Cũng thời gian này, toàn dân tham gia được chia thành 1 Trung đoàn với 3 Tiểu đoàn để tham gia phong trào làm bờ vùng bờ thửa.
Lao động trong các ngành nghề được phân bổ hợp lý hơn để phát huy tối đa, năng lực, khả năng của mọi người. Về chăn nuôi: Đàn lợn đạt 600 con, đàn trâu bò đạt 300 con. Công tác phân phối đảm bảo công bằng hợp lý, gia đình chính sách neo đơn và già cả được quan tâm đúng mức. Kinh tế tập thể được công khai sòng phẳng trong mỗi kỳ đại hội.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được duy trì và phát triển khá. Hàng năm hợp tác xã đã sản xuất được hàng triệu viên gạch, ngói, hàng ngàn tấn vôi và nhiều sản phẩm khác từ các nghề mộc, rèn, nề… phục vụ cho sản xuất, xây dựng các công trình của tập thể và hộ gia đình.
Hợp tác xã Tín dụng thời gian này hoạt động tốt, số tiền gửi và cho vay ngày càng tăng lên, giúp nhân dân có điều kiện tích lũy và đầu tư để sản xuất, chăn nuôi hoặc xây dựng các công trình, giải quyết các công việc quan trọng khác. Phong trào gửi tiền tiết kiệm được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, bình quân mức gửi từng hộ đã được tăng lên.
Hợp tác xã Mua bán đã làm tốt nhiệm vụ lưu thông, phân phối thu mua các sản phẩm của người dân, cung cấp tương đối đầy đủ các loại hàng hóa thiết yếu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao từ đó phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của cuộc sống nhân dân.
Về lâm nghiệp: Đảng bộ đã chủ trương phát động một phong trào trồng cây phủ xanh đồi trọc rộng rãi trong toàn xã. Và phát động phong trào chống dợp để tạo điều kiện cho việc phát triển các công trình giao thông cũng như để làm thông thoáng các diện tích sản xuất.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, xã Hồng Sơn đã tổ chức dời dân đến vùng nhà Ven vào năm 1977. Tiếp đó, vào năm 1978, lại dời dân ở một số xóm vào cồn Động Cào và thành lập đội sản xuất 11 (sau này là xóm 9). Tổ chức xây dựng sân vận động vào cuối năm 1977, xây dựng và hoàn thành trụ sở hợp tác xã và trụ sở Ủy ban nhân dân xã năm 1978, năm 1979 xây dựng và hoàn thành hội trường ủy ban nhân dân xã.
Như vậy, nhờ đẩy mạnh phong trào sản xuất một cách toàn diện nên Hồng Sơn đã giải quyết khá tốt những vấn đề cốt yếu trên địa bàn đó là lương thực, thực phẩm, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân. Trong thời kỳ cả huyện, cả tỉnh và cả nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng đời sống của nhân dân cơ bản được ổn định, nghĩa vụ đối với Nhà nước được hoàn thành đầy đủ. Cơ sở vật chất của địa phương được tu sửa và xây dựng thêm, tích lũy của Hợp tác xã được tăng lên.
Lĩnh vực văn hóa xã hội tiếp tục được quan tâm và phát triển. Công tác giáo dục được đầu tư nhiều hơn. Để đáp ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của con em, Đảng bộ đã có chủ trương xây dựng Trường cấp 1 và Trường cấp 2 với 12 phòng học, có đầy đủ bàn ghế cho con em học tập. Kinh phí chủ yếu do nhân dân đóng góp kể cả bằng tiền bạc và vật liệu xây dựng. Số trẻ trong độ tuổi hầu hết được huy động đến trường. Bước sang năm học 1976-1977, cấp trên có chủ trương sáp nhập trường cấp 1 và cấp 2 thành trường cấp 1,2. Sau khi sáp nhập thầy Nguyễn Bá Vinh được bầu làm hiệu trưởng nhà trường. Đội ngũ thầy cô giáo ở các trường Hồng Sơn phần lớn được điều động từ nơi khác đến, được lãnh đạo và nhân dân địa phương quan tâm nên an tâm, phấn khởi giảng dạy. Chất lượng dạy và học không ngừng được nâng lên.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Trạm y tế từng bước được nâng cấp, đội ngũ cán bộ y tế từ xóm đến xã thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ. Tinh thần phục vụ người bệnh ngày càng được nâng lên. Thời gian này Trạm y tế chủ trương phát động phong trào trồng cây dược liệu nhằm để điều chế một số loại thuốc phục vụ chữa bệnh bằng đông - tây y kết hợp. Biên chế của Trạm y tế được kiện toàn, bổ sung đầy đủ, ngoài ra ở mỗi đội sản xuất có một cán bộ y tế. Từ trưởng, phó trạm đến các nhân viên đều hăng hái, phấn khởi làm việc. Ngoài công tác điều trị, ngành y tế còn chú trọng công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho nhân dân phòng và tự chữa bệnh. Nhờ vậy, mặc dù ở xa trung tâm y tế huyện nhưng Hồng Sơn vẫn hạn chế được dịch bệnh và hạn chế tối đa những trường hợp tử vong đáng tiếc.
Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục được đẩy mạnh, các xóm vẫn duy trì được đội văn nghệ, tổ chức tập luyện và tham gia biểu diễn trong các ngày lễ trọng đại. Công tác thông tin tuyên truyền được quan tâm. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều được quán triệt tới mỗi người dân. Những điển hình tốt trong nhân dân đều được biểu dương, khen thưởng kịp thời. Các tập tục ma, chay, cưới hỏi tốn kém, lãng phí từng bước được bài trừ, nhân dân rất đồng tình hưởng ứng. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa được duy trì thường xuyên. Ngoài ra, các tổ chức Đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hàng năm đều có các phòng trào, các chương trình văn hóa, văn nghệ để giao lưu giữa các đơn vị sản xuất, các xã bạn. Điển hình đó là cuộc thi cấy vào năm 1978, do Hội Phụ nữ xã Hồng Sơn và các xã lân cận tổ chức. Kết quả, đơn vị Hồng Sơn đạt giải 2 về tập thể, và có 2 cá nhân là chị Nguyễn Thị Lương và chị Nguyễn Thị Hạnh Phúc đạt giải nhất được đi dự thi cấp huyện ở xã Đà Sơn.
Công tác an ninh, quốc phòng luôn được đảm bảo, việc tuyển quân hàng năm Hồng Sơn luôn đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Công tác tổ chức huấn luyện dân quân địa phương được huấn luyện nghiêm túc có chất lượng. Chế độ, điều kiện cho việc huấn luyện hàng năm được quan tâm, đầu tư đúng mức. Hệ thống công an được tăng cường từ xã đến xóm, ngăn chặn kịp thời những hiện tượng phao tin đồn nhảm, tiến hành quản lý chặt chẽ các đối tượng, phần tử xấu. Công an xã còn tổ chức nhiều đợt bỏ phiếu kín tố giác tội phạm nhằm phát hiện, ngăn ngừa và giáo dục các đối tượng vi phạm góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, từ năm 1975 đến 1980, bên cạnh những kết quả đạt được Hồng Sơn vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Trong sản xuất nông nghiệp, diện tích gieo trồng có tăng song năng suất chưa đáng kể và chưa đồng đều, thậm chí có khi con thụt lùi. Bình quân lương thực đầu người có những năm bị giảm xuống. Trong chăn nuôi đàn bò sinh sản quá thấp, đàn lợn bị thoái hóa trầm trọng. Chăn nuôi tập thể do ý thức trách nhiệm của người phụ trách chưa cao, việc áp dụng khoa học kỹ thuật còn chậm nên hạn chế cả về số lượng và chất lượng đàn. Giá trị thu nhập từ chăn nuôi chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thu nhập toàn xã. Việc cung cấp con giống theo đợt đã gây ra tình trạng vừa thừa vừa thiếu, ảnh hưởng đến chăn nuôi của bà con nông dân. Văn hóa xã hội còn nhiều tồn tại, chậm phát triển.
Đất nước thống nhất chưa lâu, trong lúc toàn Đảng, toàn dân ta khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng chế độ tươi đẹp, hòa bình, hữu nghị thì các thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm cách chống phá ta hết sức quyết liệt. Năm 1977-1978, tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện chế độ diệt chủng ở Cămpuchia và huy động lực lượng lớn tấn công xâm lược nước ta ở biên giới Tây Nam. Để bảo vệ an toàn đường biên giới của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân ta và nước bạn Cămpuchia, nhiều đơn vị quân đội được lệnh lên đường ra chiến trường Tây Nam cầm súng chiến đấu. Đầu năm 1979, bọn bành trướng Trung Quốc lại gây chiến tranh xâm lược nước ta ở biên giới phía Bắc. Trước tình hình đó Trung ương kêu gọi toàn dân sẵn sàng đương đầu với những kẻ thù mới. Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng được ban bố. Lập tức hàng vạn thanh niên cả nước đã hăng hái lên đường nhập ngũ. Hàng chục thanh niên của xã Hồng Sơn cũng tạm biệt quê hương lên đường đánh giặc, số còn lại vừa sản xuất vừa luyện tập sẵn sàng chờ lệnh. Sau một thời gian chiến đấu vô cùng quả cảm và được sự ủng hộ của của dư luận quốc tế, quân và dân ta đã đuổi cả hai kẻ thù ra khỏi bờ cõi, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thân yêu.
Trong hai cuộc đấu tranh chống bọn phản động xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhân dân Hồng Sơn đã tích cực đóng góp sức người, sức của góp phần làm nên thắng lợi chung. Mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước đều hoàn thành tốt. Mỗi năm Hồng Sơn đã đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm góp phần chi viện chiến trường. Tính trong 5 năm (1976 – 1980), Hồng Sơn có 50 người đi bộ đội. Đó là những đóng góp vô cùng quý báu của con em Hồng Sơn đối với công cuộc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Tháng 4/1979, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 13 nhiệm kỳ 1979-1981, được tổ chức với sự tham dự của 132 đảng viên. Đại hội đã kiểm điểm đánh giá một cách sâu sắc về thành tựu đạt được và tập trung thảo luận rút ra những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân sâu xa trong phát triển kinh tế. Đại hội đã ra Nghị quyết về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội cho những năm tới, chú trọng 2 nhiệm vụ chiến lược phát triển nông nghiệp, tăng trưởng cây lương thực và xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông thủy lợi.
Đại hội đã bầu ra 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Phạm Ngọc Xuyến được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Văn Tụng được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Trần Văn Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Ông Hoàng Văn Thụy tiếp tục được bầu làm Chủ nhiệm HTX NN.
Trong những năm sau ngày đất nước thống nhất, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, công tác xây dựng Đảng ở Hồng Sơn cũng luôn được coi trọng. Chấp hành Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị, Thông tư 192 của Ban Bí thư, Đảng bộ Hồng Sơn đã tổ chức kiểm điểm, rà soát chất lượng đảng viên một cách thận trọng và chu đáo. Đây là một dịp củng cố tổ chức Đảng từ Đảng bộ đến chi bộ. Hàng năm, Đảng bộ kết nạp được trên dưới 10 đảng viên mới và đưa những đảng viên đã thoái hóa, biến chất ra khỏi hàng ngũ của Đảng.
Thực hiện Thông tri 103-BBT về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Hồng Sơn tổ chức phát thẻ Đảng đợt 1 cho 129 đồng chí vào ngày 2/9/1979.

II. HÔNG SƠN THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP, TIẾP TỤC CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1981 – 1986)

Nhìn lại những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 1980), mặc dù tình hình còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước nói chung và của Hồng Sơn nói riêng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự điều hành của Chính quyền, nhân dân Hồng Sơn đã nỗ lực vươn lên, vượt qua những khó khăn, thách thức, giành nhiều kết quả trên các lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp tuy chưa mạnh nhưng đã có bước tiến đáng kể, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được duy trì, mở mang và phát triển khá. Cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế kỹ thuật từng bước được xây dựng, củng cố. Trụ sở, nhà làm việc, cửa hàng mua bán, trường học, trạm y tế... được xây dựng, nâng cấp, tu sửa. Đời sống nhân dân phần nào được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần.
Mặc dù vậy, do hậu quả của chiến tranh còn nặng nề, thiên tai thường xuyên đe doạ, do xuất phát điểm thấp với nền kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cơ chế chưa phù hợp cho nên dù đã có nhiều cố gắng nhưng Hồng Sơn vẫn chưa thoát khỏi những trì trệ, yếu kém. Sản xuất nông nghiệp chưa tạo được chuyển biến đáng kể, thậm chí có chiều hướng đi xuống. Một số giống lúa năng suất chỉ từ 0,8 -1 tạ/sào: như nếp Cừa. Công tác quản lý hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, bế tắc. Người nông dân không tha thiết với ruộng đồng, với làm ăn tập thể vì ngày công quá thấp. Bình quân ngày công lao động có lúc chỉ đạt từ 0,2 - 0,3 kg, chăn nuôi phát triển chậm và thiếu ổn định, lúc được lúc mất. Sản phẩm hàng hoá làm ra ít ỏi, hàng tiêu dùng thiết yếu trong xã hội quá khan hiếm. Đời sống nhân dân Hồng Sơn nói riêng, cả nước nói chung gặp rất nhiều khó khăn.
Để tháo gỡ những khó khăn đó, ngày 13/1/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá IV) ban hành Chỉ thị 100 - CT/TW chính thức quyết định chủ trương “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động” trong nông nghiệp. Có thể nói, đây là một chủ trương hết sức quan trọng trong việc đổi mới nền nông nghiệp ở nước ta, nó phù hợp với nguyện vọng tha thiết của bà con xã viên, phát huy được tinh thần làm chủ ruộng đồng, xoá bỏ bước đầu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở ra sự phát triển mới, góp phần giải quyết khó khăn của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Tháng 4/1981, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 14 nhiệm kỳ 1981-1983, được tổ chức với sự tham dự của 137 đảng viên. Đại hội đã nghiêm túc đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ qua, khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả bước đầu trong việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương tại Hồng Sơn. Đảng bộ khẳng định tiếp tục thực hiện Chỉ thị 100 một cách hiệu quả nhất góp phần bảo đảm lương thực cho nhân dân, coi đó là bước đột phá trong ổn định kinh tế của địa phương.
Đại hội đã bầu ra 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Thanh Cúc được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Bùi Đăng Nghĩa được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Sau Đại hội, HTX NN được kiện toàn, ông Đào Văn Bình được bầu làm Chủ nhiệm.
Tiếp đó, vào tháng 4/1983, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 15 nhiệm kỳ 1983-1985 được tổ chức. Tham gia Đại hội có 105 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã đánh giá công tác lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ vừa qua trên các lĩnh vực, trong đó chỉ rõ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đều có bước tiến bộ. Đại hội cũng đã kiểm điểm những sai lầm, chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ, hành động nóng vội và rút ra những bài học kinh nghiệm mà điều đáng chú ý là cần phải tôn trọng quy luật thực tế khách quan, lấy dân làm gốc.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Thụy được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Lê Thanh Châu được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Bùi văn Nghĩa và đồng chí Nguyễn Huy Bàng làm Phó Chủ tịch xã. Ông Đào Văn Bình tiếp tục được bầu làm Chủ nhiệm HTX NN.
Đến năm 1984, đồng chí Đào Văn Bình làm Chủ tịch thay đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ; đồng chí Hoàng Văn Huy làm Phó Chủ tịch xã. Ông Phan Đăng Vân được bầu làm Chủ nhiệm HTX NN.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Trung ương Đảng, Đảng uỷ, Chính quyền và Hợp tác xã Hồng Sơn đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức rà soát lại diện tích, nhân khẩu và người lao động nông nghiệp, lên kế hoạch cho từng đội để tiến hành khoán. Việc khoán được thực hiện theo hình thức “Năm khâu, ba việc”. Hợp tác xã đảm nhiệm khâu giống, làm đất, tưới tiêu nước, cung cấp phân hoá học và bảo vệ thực vật; xã viên gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch và nộp sản phẩm cho Hợp tác xã.                 
Khâu làm đất Hợp tác xã  hợp đồng với Trạm máy kéo của huyện hoặc điều hành lao động, trâu bò để cày bừa ruộng cho tất cả các đội sản xuất. Việc làm đất thường được hoàn thành kịp thời vụ gieo cấy và đảm bảo kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con trong việc sản xuất.
Về khâu giống, Ban quản lý Hợp tác xã  quy định vùng sản xuất và các loại giống cho các đội. Vụ chiêm - xuân chủ yếu là các loại giống lúa như Nông nghiệp 8, 424, sau thay bằng Nông nghiệp 22, V13, 314 và Trân Châu lùn. Vụ mùa có Nông nghiệp 22, Bao thai và các loại nếp. Ruộng làm giống được đầu tư chăm sóc và bón phân nhiều hơn, tăng thêm lân hoặc tro bếp để đảm bảo chắc hạt. Đội nào không có ruộng giống hoặc khi thu hoạch không đảm bảo thì Hợp tác xã cho đổi thóc thịt lấy thóc giống với tỷ lệ 1,2/1. Cứ đến vụ, tổ kỹ thuật đưa giống lúa về ngâm ủ, thúc mầm tập trung. Khi giống ủ xong các đội cử người đem về và phân phối cho bà con xã viên gieo. Việc ủ giống tập trung thực hiện được một thời gian, về sau thấy có nhiều phiền phức, ảnh hưởng đến chất lượng cho nên Hợp tác xã cho bà con xã viên tự đảm nhận ủ và gieo luôn.
Về phân bón, giai đoạn này Hợp tác xã đã phân phối cho các đội một số loại phân hoá học như đạm, lân, kali nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phân hữu cơ. Để có đủ nguồn phân bón cho đồng ruộng, Hợp tác xã đã nâng mức đóng của các hộ nuôi cho mỗi con trâu bò, bê nghé và lợn lên mức cao hơn. Ngoài phân chuồng, Hợp tác xã  chỉ đạo các đội phát động xã viên cắt và ủ phân xanh, duy trì việc nuôi bèo hoa dâu. Nhờ vậy mà nguồn phân bón được tăng lên đáng kể.
Về công tác thuỷ lợi, để có đủ nước tưới cho đồng ruộng, Hồng Sơn vẫn chủ trương củng cố, tu bổ các con đập, hệ thống kênh mương nâng trữ lượng và công suất tưới. Các đội thủy lợi được duy trì và làm tốt nhiệm vụ. Thời gian này, Đảng bộ chủ trương tiếp tục tu bổ các công trình thủy lợi và tiến hành xây dựng một số hồ đập để lấy nước phục vụ sản xuất. Trong đó nổi bật của giai đoạn này là làm đập khe Quýt vào năm 1984. Để làm công trình này, xã đã thành lập ban chỉ đạo xậy dựng do đồng chí Hoàng Văn Huy làm trưởng ban, đồng chí Trần Văn Nghiêm làm phó ban, huy động 180 người làm trong vòng 1 năm thì hoàn thành. Ngoài ra, để hỗ trợ xã Hồng Sơn huyện Đô Lương đã huy động toàn bộ lực lượng đoàn thanh niên trong toàn huyện đi tham gia.
Trong công tác bảo vệ thực vật, Hợp tác xã có đội kỹ thuật thường xuyên theo dõi, kiểm tra, phòng trừ sâu bệnh cho lúa và hoa màu. Khi có sâu bệnh lớn, các đội tiến hành phun thuốc đồng loạt. Những người phụ trách việc phun thuốc được tính công điểm cao, lại còn có chế độ bồi dưỡng thêm, do vậy công việc được tiến hành trôi chảy, các dịch sâu bệnh được phát hiện và dập tắt kịp thời làm cho cây trồng phát triển tốt.
Về các khâu do xã viên đảm nhận, nhờ việc khoán, quyền tự chủ sản xuất của người nông dân được phát huy, thu nhập chính đáng được khuyến khích, họ phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất, tăng cường đầu tư công sức, vốn liếng, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào đồng ruộng, làm cho năng suất cây trồng ngày càng lên cao. Sản lượng lương thực toàn xã hàng năm không ngừng được nâng lên.
Về tiểu thủ công nghiệp, giai đoạn này toàn xã Hồng Sơn có khoảng 20 lò vôi cóc và 2 lò gạch. Vôi sản xuất ra của các hợp tác xã chủ yếu để dùng bón cải tạo đồng ruộng và xây dựng cơ bản. Còn 2 lò gạch mỗi lò một lần ra gần 7 vạn viên gạch. Gạch được phân phối cho các xã viên và bán đi các nơi khác như ở Diễn Châu, Thái Hòa.
Đàn gia súc, gia cầm phát triển khá mạnh ở các hộ gia đình. Công tác thú y được Hợp tác xã thường xuyên chăm lo. Đội ngũ cán bộ thú y được hình thành tổ chức từ xã đến xóm, toàn xã có 3 cán bộ thú y có trình độ trung cấp và sơ cấp. Việc tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được tiến hành theo định kỳ, đều đặn và có hiệu quả. Thời gian này, cả xã có 1 trại chăn nuôi bò của hợp tác xã khoảng 200 con. Bên cạnh đó, phong trào chăn nuôi cá cũng phát triển mạnh mẽ trên các loại ao, hồ, đập… Việc nuôi cá đã đem lại nguồn lợi không nhỏ cho Hợp tác xã và bà con xã viên, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Trong xây dựng cơ bản, thời gian này xã tổ chức làm cầu Đập Bạc và Cầu Cau. Để tổ chức làm cầu đập Nước Bạc, xã đã thành lập ban xây dựng do đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ làm trưởng ban. Với sự tham gia giúp đỡ của đơn vị K41, nên sau 3 tháng, công trình đã hoàn thành.
Về lâm nghiệp, là một xã có diện tích rừng lớn nên Đảng bộ, Chính quyền luôn luôn coi trọng công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Từ trước đến nay, rừng là nguồn lợi lớn, có ảnh hưởng quan trọng đối với đời sống nhân dân Hồng Sơn. Trong các năm từ 1981 đến 1986, Đảng bộ có chủ trương phát động nhân dân làm tốt việc bảo vệ rừng tự nhiên và trồng cây gây rừng. Để làm tốt việc trồng và bảo vệ rừng, Đảng bộ xã đã chủ trương giao cho nhân dân khoanh nuôi, trồng, chăm sóc bảo vệ và khai thác. Bình quân mỗi hội từ 0,5 – 1, 0 ha. Nhờ những chủ trương, cách làm trên cùng với việc thực hiện Chỉ thị 37 của Chính phủ về việc nhận đất, trồng cây, công tác lâm nghiệp của Hồng Sơn được thực hiện tốt, đưa lại nhiều lợi ích to lớn cho địa phương, cho nhân dân như giữ độ ẩm, nguồn nước, cung cấp các sản phẩm như gỗ, củi, tre, mét, hạt dẻ… Có hộ gia đình thu hoạch hàng trăm ngàn đồng tiền hạt dẻ mỗi năm, nhiều hộ thu hoạch gỗ, củi, mét bán đưa về hàng triệu đồng.
Trên mặt trận lưu thông phân phối, lúc này Đảng và Nhà nước ta bắt đầu có chủ trương xóa bỏ tình trạng cấm chợ, ngăn sông. Năm 1985, Hội nghị Trung ương lần thứ 8- Khóa V đã bàn về chính sách giá - lương - tiền và quyết định từng bước xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Để đồng tiền được ổn định và sử dụng thống nhất trong cả nước, cũng trong năm 1985 Nhà nước đã tiến hành cuộc đổi tiền thắng lợi. Chế độ cung cấp được xoá bỏ mà bù giá vào lương, hàng hoá chỉ có một giá.
Cùng với kinh tế, lĩnh vực văn hóa xã hội cũng được quan tâm và tiếp tục có bước phát triển. Thực hiện chủ trương cải cách của Bộ Giáo dục, các trường học ở Hồng Sơn đã hoàn thành việc sáp nhập trường cấp 1 và trường cấp 2 thành Trường Phổ thông cơ sở. Công tác giảng dạy và học nhanh chóng đi vào nề nếp, ổn định và từng bước nâng cao chất lượng. Phong trào thi đua “Hai tốt” được đẩy mạnh, khơi dậy khí thế sôi nổi trong việc giảng dạy, học tập, tu dưỡng rèn luyện của thầy và trò. Hệ thống nhà trẻ mẫu giáo được tổ chức ở khắp nơi trên địa bàn xã. Tất cả các đội sản xuất đều có nhà trẻ, cô nuôi dạy trẻ là những người được hợp tác xã chọn cử, có tinh thần trách nhiệm, có lòng yêu thương và kỹ năng chăm sóc trẻ do bà con giới thiệu. Trẻ tập trung đến lớp vừa được nuôi dạy chu đáo vừa tạo điều kiện để cha mẹ yên tâm sản xuất. Về hệ mẫu giáo, cứ 2 - 3 đội sản xuất lại có một phòng mẫu giáo vừa có lớp nhỡ vừa có lớp lớn. Số trẻ được huy động hàng năm từ 70 – 80%. Về giáo dục phổ thông, Trường Phổ thông cơ sở Hồng Sơn đã làm khá tốt việc huy động và duy trì sĩ số. Số học sinh hàng năm đạt từ 600 – 700 em. Nhà trường đã xây dựng và duy trì tốt nề nếp dạy học. Đội ngũ giáo viên cơ bản đầy đủ, đáp ứng yêu cầu về trình độ, năng lực, trách nhiệm trong việc giảng dạy. Để góp phần bồi dưỡng học sinh giỏi cho địa phương, nhà trường đã tổ chức các lớp chọn từ lớp 2 đến lớp 9, cử những giáo viên có uy tín, năng lực chuyên môn tốt, nhiệt tình, trách nhiệm cao đảm nhận. Việc tổ chức các lớp chọn đã có tác dụng rõ rệt đối với chất lượng mũi nhọn của địa phương. Nhờ vậy, hàng năm số học sinh giỏi ở các khối của Hồng Sơn không ngừng tăng lên. Bên cạnh chất lượng mũi nhọn, chất lượng đại trà cũng được chăm lo. Nhà trường đã tiến hành khảo sát và khoán chất lượng từng môn, lớp cho giáo viên, giao trách nhiệm về việc giúp đỡ, phụ đạo những học sinh yếu. Vì vậy tỷ lệ học sinh khá, giỏi ngày càng tăng, học sinh yếu kém và trung bình giảm xuống. Tỷ lệ học sinh được lên lớp hàng năm đạt trên dưới 95%,  tốt nghiệp đạt trên 90%. Số lượng học sinh học xong phổ thông cơ sở thi vào Trường cấp III ngày càng cao. Một đặc điểm nổi bật của Trường Phổ thông cơ sở Hồng Sơn thời gian này là việc tăng cường hoạt động ngoại khóa để nâng cao nhận thức, giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh. Nhân dịp các ngày lễ như ngày thành lập Đảng (3/2), Ngày sinh nhật Bác (19/5), Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12)… nhà trường đã tổ chức mít tinh kỷ niệm, nói chuyện truyền thống, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan... Các hoạt động đó đã tạo ra khí thế sôi nổi, hào hứng, thu hút đông đảo học sinh tham gia, nhờ vậy hiện tượng học sinh bỏ học, học sinh cá biệt giảm dần, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên rõ rệt. Công tác thư viện của trường học cũng được chú ý làm tốt. Trong thư viện có đủ loại báo cần thiết như báo Nhân dân, báo Giáo viên nhân dân, Thiếu niên tiền phong… Hàng ngày trước mỗi buổi học, các lớp đều sử dụng 15 phút đầu giờ để đọc báo, đây là hoạt động bổ ích nhằm mở mang nhận thức, giáo dục học sinh. Thư viện đã xây dựng được tủ sách dùng chung với các loại đầu sách khá phong phú. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, kinh tế chưa phát triển, đời sống nhân dân còn khó khăn, điều kiện dạy học còn thiếu thốn, tủ sách dùng chung của nhà trường đã giúp cho học nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tốt.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng thường xuyên được coi trọng. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của trạm được xây dựng tu bổ, mua sắm ngày càng khang trang, đầy đủ hơn. Trong việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, trạm y tế đã làm tốt việc kết hợp giữa phòng và chữa, tuyên truyền thực hiện tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh, xây dựng các công trình giếng nước, nhà tắm, hố xí 2 ngăn hợp vệ sinh. Địa phương cũng quan tâm chăm lo chế độ, phụ cấp cho cán bộ y tế từ trạm đến xóm - đội, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ này ngày càng được nâng lên. Trạm y tế xã hoạt động có nề nếp, có hiệu quả. Trạm đã quan tâm tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân phòng bệnh qua các mùa. Công tác khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được làm tốt. Nhờ vậy, các dịch bệnh lớn hầu như không xẩy ra trên địa bàn.
Thời gian này, công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình bắt đầu được chú trọng. Đây là cuộc vận động lớn mới mẻ nhưng rất khó khăn, nhất là về tư tưởng, bởi vì nó khác với quan niệm, suy nghĩ truyền thống từ ngàn đời nay. Tuy vậy, qua việc học tập, quán triệt, nhân dân nói chung, chị em phụ nữ nói riêng đã từng bước thấm nhuần chủ trương của Đảng, Nhà nước và tích cực thực hiện. Biện pháp được sử dụng phổ biến nhất là đặt vòng tránh thai. Hợp tác xã có chế độ khuyến khích các bà mẹ thực hiện các biện pháp về kế hoạch hóa gia đình, góp phần hạ tỷ lệ sinh, nhất là sinh con thứ 3, thứ 4 trở lên. Nhờ vậy tỷ lệ phát triển dân số của xã từ 2,1% đã hạ xuống 1,9%/năm.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vẫn luôn được quan tâm. Trong thời kỳ này Đảng bộ đã lấy 10 nhiệm vụ, 6 chế độ làm thước đo phẩm chất, tư cách đảng viên, lấy Chỉ thị 33 của Ban Bí thư Trung ương, Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị để so sánh và rà soát chất lượng tổ chức Đảng. Đội ngũ cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể đã đi vào ổn định, không bị xáo trộn quá nhiều qua mỗi kỳ đại hội kiện toàn. Công tác phát triển đảng viên mới luôn được quan tâm. Mỗi năm, Hồng Sơn đã kết nạp được trên dưới 10 quần chúng ưu tú vào Đảng. Mọi hoạt động đều đảm bảo cơ chế "Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ".
Đoàn Thanh niên luôn là lực lượng xung kích trong mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là trong thâm canh tăng năng suất nông nghiệp, nuôi  bèo hoa dâu, trong việc xây dựng các công trình thủy lợi của địa phương và của huyện, của tỉnh. Ngoài ra Đoàn Thanh niên luôn làm tốt nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
Hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ ngày càng đi vào nề nếp. Vai trò đảm đang, bất khuất của người phụ nữ trong kháng chiến chống Mỹ nay lại đang được phát huy trong cách mạng xây dựng CNXH. Trên mặt trận mới người phụ nữ Hồng Sơn vẫn xứng đáng với 8 chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Chị em đã đóng góp vai trò trụ cột trên mặt trận chăn nuôi, nuôi dạy,  hướng nghiệp cho con cái và xây dựng gia đình văn hóa.
Trong công tác an ninh - quốc phòng, mỗi đội sản xuất đều thành lập một trung đội dân quân. Toàn xã tổ chức một trung đội mạnh, sẵn sàng cơ động khi có lệnh. Nghĩa vụ giao quân hàng năm Hồng Sơn đều hoàn thành nhanh gọn. Từ 1981 – 1985, có 52 đồng chí tham gia quân đội. Lực lượng dân quân luôn đảm bảo chương trình huấn luyện đề ra hàng năm. 5 năm liền đơn vị dân quân Hồng Sơn được công nhận là đơn vị Quyết thắng. Công tác an ninh được đảm bảo cả ngoài đồng ruộng và trong thôn xóm. Trong gian đoạn 1982-1983 xẩy ra 2 vụ ăn trộm tài sản của nhân dân, lực lượng công an đã tiến hành điều tra và xử lý kịp thời đã góp phần đảm bảo cuộc sống bình yên cho nhân dân.            
Tháng 4/1985, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 16 nhiệm kỳ 1985-1987, được tổ chức. Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những thành tích đã đạt được và những thiếu sót khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cho nhiệm kỳ mới phù hợp với tình hình. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành có 11 đồng chí, đồng chí Trần Văn Nghiêm[32] được bầu làm Bí thư, đồng chí Đào Văn Bình được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Trương Công Thìn được bầu làm Phó Bí thư trực, đồng chí Hoàng Văn Huy được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Chủ nhiệm HTX NN là ông Phan Đăng Vân.
Tháng 12/1986, đồng chí Tăng Văn Huỳnh làm Bí thư thay đồng chí Trần Văn Nghiêm chuyển công tác khác.

[32].  Đến cuối năm 1986, đồng chí Nghiêm nghỉ, đồng chí Huỳnh lên thay.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, xã Hồng Sơn đã giành được nhiều thành tựu trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng cũng như công tác xây dựng Đảng và chính quyền.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong những năm 1981 - 1985, Hồng Sơn vẫn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức và một số khuyết điểm, yếu kém. Thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tục đã gây rất nhiều khó khăn cho địa phương nói riêng và cả huyện, cả tỉnh nói chung. Hạn hán xẩy ra thường xuyên, nguồn nước từ các con đập không đủ cung cấp cho sản xuất. Nhiều loại sâu bệnh liên tiếp xuất hiện, hợp tác xã và nông dân chưa có kinh nghiệm phòng trừ, tiêu diệt các loại dịch bệnh mới như: bọ xít, rầy nâu, khô vằn… Năm 1983, nạn bọ xít hoành hành lớn; năm 1984, nhiều hộ nông dân có ruộng bị rầy nâu, khô vằn phá hoạt hầu hết, thu hoạch còn lại không đáng kể. Bên cạnh thiên tai, dịch bệnh, công tác quản lý sản xuất, phân phối cũng còn nhiều yếu kém. Trong khâu làm đất, việc thuê máy kéo đã nảy sinh nhiều tiêu cực. Mặt khác, do buông lỏng quản lý nên tình trạng “rong công phóng điểm” vẫn tồn tại. Bởi vậy năng suất cây trồng có được tăng lên nhưng giá trị ngày công lại giảm xuống. Trong chăn nuôi do biện pháp chưa đủ mạnh, một số hộ thiếu cố gắng, tích cực nên rơi vào khó khăn, không đủ sản phẩm nhập theo nghĩa vụ được giao, sinh ra nợ nần đối với hợp tác xã. Việc phân phối sản phẩm vẫn được duy trì phương thức “Ba về” (nhà nước, tập thể, xã viên) trong đó nghĩa vụ cho Nhà nước, tập thể ngày càng tăng nên phần chia cho xã viên giảm xuống.
Những khó khăn, yếu kém nói trên đã làm cho nền kinh tế của Hồng Sơn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng đất đai, lao động. Đời sống nhân dân mặc dù có được cải thiện một bước nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều hộ không đủ sản phẩm, lương thực nên nợ đọng kéo dài.
 Lĩnh vực văn hóa xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, tồn tại, chất lượng giáo dục chưa cao, học sinh bỏ học số lượng khá lớn, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có lúc có nơi chưa làm tốt; hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao còn mang tính thời vụ. Trong xã hội nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, một số tệ nạn xã hội đã xâm nhập địa bàn nhưng chưa có biện pháp phòng chống. Công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể nhiều lúc thực hiện chưa tốt, chưa phát huy cao nhất vai trò trong việc lãnh đạo, quản lý, tập hợp nhân dân. Đó là những điều mà Hồng Sơn cần khắc phục để tiếp tục xây dựng quê hương ngày càng phát triển đi lên.

Chương sáu

ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN HỒNG SƠN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM  KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO  (1986 – 2010)

I. HỒNG SƠN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 – 1990)

Từ năm 1981 đến năm 1986, thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Năng suất, sản lượng lương thực, thực phẩm tăng lên, đời sống nhân dân đã có bước cải thiện. Tuy nhiên, do tác động của cơ chế tập trung hành chính, bao cấp, kinh tế nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, phát triển chậm, thiếu ổn định và chưa vững chắc. Trong xã hội nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục phát triển đi lên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có sự đổi mới một cách toàn diện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18-12/1986, tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm, yếu kếm trong thời gian qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1986 - 1990) đó là “Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”, đồng thời đề ra nhiệm vụ, giải pháp thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Có thể nói, đây là đại hội có tính bước ngoặt, đưa nước ta sang một thời kỳ phát triển mới.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh, Đại hội Đảng bộ huyện Đô Lương, Đảng bộ xã Hồng Sơn đã lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội với tinh thần đổi mới.
Bước vào đổi mới, nông nghiệp vẫn luôn được xác định là ngành chính của Hồng Sơn. Để phát triển nông nghiệp, bên cạnh tiếp tục thực hiện khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương, Đảng bộ chủ trương đẩy mạnh việc cải tạo đồng ruộng, đắp bờ vùng bờ thửa, ra quân làm giao thông thủy lợi, xây dựng, tu sửa mương máng, bồi trúc hồ đập. Các con đập thường xuyên được kiểm tra, phát hiện những điểm có nguy cơ xói lở để khắc phục, sửa chữa kịp thời, nhất là trong mùa mưa bão. Nhờ vậy, việc tưới nước cho đồng ruộng được đảm bảo, góp phần nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng. Bên cạnh đó, Hồng Sơn cũng chú trọng vấn đề cơ cấu cây trồng trên các loại đất. Ngoài diện tích lúa tương đối ổn định, Chính quyền, Hợp tác xã đã chủ trương mở rộng các loại cây có tính hàng hóa hoặc phục vụ chăn nuôi như lạc, đậu xanh, ớt cay, ngô, khoai lang, sắn… trên đất màu, đất 5%, đất đồi, vệ… các loại cây này đem lại giá trị thu nhập khá cao góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do không mang tính chuyên canh, thị trường không ổn định, một số loại cây về sau bị thu hẹp dần.
Tháng 4/1987, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 17 nhiệm kỳ 1987-1989, được tiến hành với sự tham gia của 105 đảng viên. Đại hội tiếp tục đề ra phương hướng: Tiếp tục hoàn thiện và hoàn thiện thành công Khoán 100 trên diện tích toàn xã, bảo đảm lợi ích cho xã viên, phát huy tính sáng tạo của nhân dân lao động, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng, thực hiện 100% giống mới. Tổ chức xóa bỏ tổ chức đội sản xuất mà hình thành 9 xóm mới. Mở rộng và tu sửa, tôn tạo toàn bộ hệ thống giao thông trong toàn xã. Xây dựng trụ sở cho Đảng ủy, Mặt trận Tổ quốc và khối đoàn thể. Đại hội bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành, đồng chí Tăng Văn Huỳnh được bầu làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Huy được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Tăng Văn Nghi làm Phó Bí thư trực, đồng chí Nguyễn Văn Xoan làm Phó Chủ tịch xã. HTX NN được kiện toàn, ông Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Chủ nhiệm.
Đến năm 1988, đông chí Tạ Hữu Tam làm Phó Chủ tịch xã thay đồng chí Nguyễn Văn Xoan chuyển làm việc khác.
Trong sản xuất, Chính quyền, Hợp tác xã chủ trương cơ cấu các loại giống mới, chủ yếu là IR1820, 314, Nông nghiệp 8, CR203, Bào thai, Mộc tuyền. Đến năm 1989, có thêm các loại giống mới như U17, V14, 75/10. Riêng 2 loại giống IR1820 và Nông nghiệp 8 nhờ năng suất cao, có nhiều ưu điểm nên được cơ cấu trên 70-80% diện tích. Tất các các loại giống trên Hợp tác xã hợp đồng với trạm giống của huyện, chuyển giao đến tận tay bà con nông dân nên nhìn chung giống đảm bảo chất lượng. Để góp phần nâng cao năng suất cây trồng, việc đầu tư phân bón được coi trọng. Mặc dù ruộng đã khoán cho xã viên, nguồn phân hóa học đã dồi dào hơn nhưng Hợp tác xã vẫn chủ trương nuôi bèo hoa dâu, phát động nhân dân làm phân xanh, phân chuồng để bón cho đồng ruộng.
Sau một thời gian thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW, nông nghiệp nước ta nói chung, Hồng Sơn nói riêng đã giành được những kết quả to lớn. Người nông dân được tự do trên đồng ruộng, phát huy cao tính tích cực, tự giác, chăm lo đầu tư sản xuất nên năng suất, sản lượng cây trồng tăng lên đáng kẻ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, đến năm 1987- 1988, chính sách “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động” với “5 khâu, 3 việc” đã không còn phù hợp. Kiểu ăn chia, phân phối, quản lý hành chính quan liêu, mệnh lệnh còn nặng nề. Việc giao nộp nghĩa vụ lương thực còn nhiều phức tạp. Công tác định mức thiếu dân chủ, công bằng, người trực tiếp làm ra sản phẩm chỉ được hưởng một tỷ lệ thấp, trong lúc người gián tiếp lại hưởng cao. Trước tình hình đó, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khóa VI) đã ra Nghị quyết 10 về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Theo tinh thần Nghị quyết, hợp tác xã được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản. Hộ xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã, ruộng đất được giao khoán lâu dài, đổi mới cơ chế quản lý đối với hợp tác xã trong nông nghiệp.
Tháng 9/1989, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 18 nhiệm kỳ 1989-1991, được tiến hành. Đại hội tiếp tục đề ra phương hướng: Tiếp tục hoàn thiện và hoàn thiện thành công Khoán 10 trên diện tích toàn xã, bảo đảm lợi ích cho xã viên, phát huy tính sáng tạo của nhân dân lao động, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng. Xây dựng các cây cầu bê tông  như cầu khe Đình, cầu Cau, cầu Sa Bạc, đồng thời nâng cấp, tôn tạo 2 trường cấp 1 và 2. Đại hội bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành, đồng chí Tăng Văn Huỳnh được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Quốc Tỵ được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Phan Đăng Năm được bầu làm Ủy viên thường vụ trực Đảng kiêm Thư ký hội đồng nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Xuân Phấn làm Phó Chủ tịch xã.
HTX NN được kiện toàn, ông Nguyễn Xuân Thành được bầu làm Chủ nhiệm.
Năm 1990, giải thể HTX NN; về kinh tế giao lại cho UBND xã giải quyết.
Theo chỉ đạo của cấp trên, trực tiếp là Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Đô Lương, Hồng Sơn đã tổ chức quán triệt Nghị quyết 10 dến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sau khi bước vào thực hiện, Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xã đã có sự chỉ đạo chặt chẽ các bước tiến hành, kịp thời rút kinh nghiệm, khắc phục sửa chữa những thiếu sót, lệch lạc và phát triển, nhân rộng những điển hình tốt để cơ chế khoán mới vận hành thông suốt. Chính quyền, Hợp tác xã đã tổ chức rà soát lại diện tích, phân loại chính xác, đánh giá đúng tiềm năng của ruộng đất, đồi, rừng, ao hồ, đập nước; tổ chức điều tra giữa đất và hộ tịch, hộ khẩu để phân phối ruộng đất cho người lao động. Ngoài số ruộng đất dự phòng, mỗi khẩu nông nghiệp được nhận 1 sào… và tiến hành khoán trong vòng 20 năm, ít nhất ổn định trong 5 năm và chỉ điều chỉnh mức khoán khi điều kiện vật chất kỹ thuật thay đổi.
Nhờ khoán mới, người nông dân phấn khởi, tích cực hăng hái thi đua lao động sản xuất. Phong trào thâm canh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp chuyển biến mạnh mẽ. Chính quyền và hợp tác xã đã tổ chức hướng dẫn cho nhân dân khâu kỹ thuật và những biện pháp thâm canh tăng năng suất. Diện tích 1 vụ, 2 vụ nay chuyển thành 3 vụ. Vụ hè thu trở thành vụ chính. Cây ngô vụ đông trở thành loại cây quan trọng. Bà con đã mạnh dạn đầu tư vốn, giống cây, con tích cực cải tạo đất đai, tận dụng tối đa diện tích, tích cực đầu tư công sức chăm bón. Nhờ vậy năng suất lúa, hoa màu tăng lên rõ rệt. Như lúa NN8 có nơi đạt 3 tạ/sào, lúa 5 số đạt năng suất 3,5 tạ/sào. Vì thế, đưa năng suất lúa bình quân trong các năm từ 1988-1990, đạt từ 2,5 - 2,7 tấn/ha. Đặc biệt có nơi đạt 5 tấn/ha, năng suất chưa từng có trên đồng ruộng Hồng Sơn. Đã có trên 60% số hộ vượt mức khoán, 30% đạt khoán, chỉ còn một số hộ do hoàn cảnh neo đơn, đầu tư thấp nên không đạt khoán. Có hộ đã nhập cho Hợp tác xã 1-2 tấn thóc mỗi năm. Sản lượng lương thực hàng năm không ngừng được nâng lên. Năm 1986 đạt 340 tấn, năm 1988 đạt 400 tấn.
Về xây dựng cơ bản, giai đoạn này được sự tài trợ 300 tấn lương thực của tổ chức phi Chính Phủ của Vương quốc Bỉ, xã Hồng Sơn tổ chức đắp đập Bỉ để lấy nước phục vụ cho sản xuất. Bằng các phương tiện thủ công là chủ yếu, nhưng với tinh thần phải có nước để sản xuất nên toàn thể nhân dân trong xã đã tham gia đắp đập. Vì thế trong một thời gian ngắn, đập Bỉ đã được hoàn thành.
Trồng trọt phát triển kéo theo sự phát triển của chăn nuôi. Nhờ nguồn lương thực dồi dào nên thức ăn gia súc, gia cầm đầy đủ, phong phú hơn. Do đó đàn lợn, đàn trâu, bò, gà vịt… tăng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, thực hiện chủ trương của huyện năm 1988, Hồng Sơn đã tiến hành hóa giá đàn trâu bò tập thể. Hợp tác xã nông nghiệp đã thành lập ban hóa giá đàn trâu bò để bán lại cho xã viên. Đây là vấn đề mới mẻ, nhạy cảm, liên quan đến công tác quản lý và tư liệu sản xuất của hợp tác xã nên lúc đầu nhiều cán bộ, đảng viên và xã viên còn băn khoăn nhưng khi thực hiện thấy có hiệu quả thì chủ trương này rất được hoan nghênh, đồng tình. Nhờ hóa giá cho xã viên, đàn trâu bò được chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo, không bị chết rét và dịch bệnh lớn nên ngày càng phát triển, đến năm 1990 đạt trên dưới 800 con. Về đàn lợn, thời gian này phát triển mạnh. 2/3 số hộ đều tham gia nuôi lợn nái, các giống lợn mới cho thịt ngon, hay ăn chóng lớn được nhân dân đưa vào nuôi nên giá trị thu nhập tăng lên. Trọng lượng xuất chuồng từ 50 – 60 kg năm 1985 lên 65- 70 kg năm 1990. Chăn nuôi gia cầm cũng phát triển mạnh, với nhiều loại giống mới tăng trưởng nhanh, cho thu nhập cao. Phong trào xây dựng vườn đồi theo mô hình V-A-C (vườn - ao - chuồng) được hưởng ứng rầm rộ, mang lại hiệu quả, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Công tác lâm nghiệp được chú trọng, địa phương tiếp tục thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng, trồng cây, bảo vệ rừng, tạo được các mô hình trang trại, vườn rừng. Nhiều hộ đã có thu nhập tương đối cao từ trang trại, cây lâm nghiệp từ việc giao đất giao rừng.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp từng bước được mở mang, phát triển. Các lò gạch, ngói, lò vôi cải tiến tăng về số lượng và chất lượng sản phẩm, phục vụ đáp ứng yếu cầu ngày càng cao của công tác xây dựng các công trình tập thể và cá nhân cũng như bón cho đồng ruộng, cải tạo đất. Các nghề mộc, rèn, sản xuất đồ gia dụng, nông cụ tiếp tục phát triển và ngày càng mở rộng, tạo việc làm cho nhiều lao động và tăng thu nhập cho người dân.
Vào thời gian này, trong điều kiện chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại của hai hợp tác xã Mua bán và Tín dụng không còn phù hợp nữa. Giữa năm 1989, được cấp trên và ngành ngân hàng nhất trí, Hợp tác xã Tín dụng đã tiến hành giải thể. Việc gửi tiền của nhân dân đều quy tụ về ngân hàng. Điều này không gây ra gián đoạn, khó khăn, trở ngại cho nhân dân, ngược lại đã làm gọn nhẹ bộ máy, tinh giản đội ngũ cán bộ. Đây là một chủ trương hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế lúc bấy giờ. Cũng thời gian này, hàng hoá trên thị trường khá phong phú, đa dạng, nhu cầu tiêu dùng của nhân dân được đáp ứng thoả mãn. Các cửa hàng tư nhân mọc lên khắp nơi, tận các vùng sâu, vùng xa và mọi nẻo đường thôn xóm. Cơ chế thị trường, cảnh mua bán thoải mái, lịch sự với phương châm “Khách hàng là thượng đế”. Trong điều kiện đó Hợp tác xã Mua bán xã Hồng Sơn cũng tiến hành giải thể, toàn bộ hồ sơ, tài sản bàn giao cho chính quyền quản lý.
Nhờ đổi mới kinh tế, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên nên các lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao được đẩy mạnh. Công tác thông tin, tuyên truyền được duy trì thường xuyên, đưa các chủ trương, chính sách cuả Đảng và Nhà nước, quy định của địa phương đến mọi người dân có hiệu quả. Các hình thức tuyên truyền bằng khẩu hiệu, panô, áp phích, truyền thanh, cổ động được tổ chức tốt. Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi và thu hút đồng đảo nhân dân tham gia, tạo không khi vui tươi, lành mạnh thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, học tập xây dựng quê hương. Các hội thi văn nghệ, thể dục thể thao như bóng đá, bóng chuyền… được tổ chức nhân các dịp lễ tết, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, động viên nhân dân rèn luyện sức khỏe.
Công tác giáo dục ngày càng được chú trọng. Với tinh thần đổi mới toàn diện, Đảng bộ, Chính quyền, đoàn thể và toàn dân đã có sự chăm lo đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo của xã nhà. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng cơ sở vật chất thường xuyên được tu sửa, nâng cấp, các phương tiện hoạt động, trang thiết bị dạy học khác cũng được mua sắm bổ sung ngày càng đầy đủ hơn. Đội ngũ giáo viên, được Đảng ủy quan tâm chia thêm ruộng đất để có thêm nguồn thu nhập. Nhiều giáo viên được kết nạp vào Đảng. Vì thế, hoạt động của các trường từng bước đi vào nề nếp, chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên. Số học sinh bỏ học không đáng kể. Tỷ lệ học sinh lên lớp bình quân đạt trên 95%, tốt nghiệp trên 90%. Chất lượng mũi nhọn ngày càng tiến bộ, nhiều học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Thời gian này, ở 9 xóm đã xây dựng được 9 nhà mẫu giáo, đưa tổng số lớp học các cấp trong xã lên 29 lớp. Hiệu trưởng trường cấp 1,2 lúc này là thầy Nguyễn Hữu Vinh.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được coi trọng và chuyển biến tích cực. Trạm y tế đã từng bước nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh tại trạm, làm tốt vệc tư vấn, cấp phát thuốc cho bệnh nhân, tạo sự an tâm, tin tưởng cho nhân dân. Vì vậy người bệnh hầu hết được khám và điều trị tại trạm, trường hợp bệnh nặng, không đủ điều kiện, phương tiện mới chuyển lên tuyến trên. Công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình được chỉ đạo, tuyên truyền thực hiện từng bước có hiệu quả. Để thực hiện tốt chủ trương về công tác Dân số kế hoạch hóa gia đình, Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1986 – 1989, đã thống nhất đưa ra một số biện pháp mạnh cả về tuyên truyền vận động, về tổ chức, hành chính và kinh tế để ràng buộc mọi người thực hiện, từ đó góp phần giảm mạnh tỉ lệ tăng dân số tự nhiên xuống dưới 2%, giảm mạnh số người sinh con thứ 3, thứ 4 trở lên.
Việc thực hiện các chính sách xã hội cũng được chú ý làm tốt. Hàng năm địa phương tiến hành tặng quà cho các gia đình liệt sỹ, gia đình có công, thương bệnh binh một cách chu đáo. Đảm bảo đầy đủ, kịp thời mọi chế độ, chính sách do Nhà nước quy định. Trong việc thực hiện các chủ trương, địa phương luôn có sự quan tâm đối với các đối tượng chính sách như ưu tiên trong việc chia ruộng canh tác, đất ở. Những việc làm thiết thực đó đã thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn.
Về nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng - an ninh: Là địa bàn rộng lớn, giáp với nhiều xã trong huyện và ngoài huyện, việc đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương là hết sức quan trọng. Xác định đúng nhiệm vụ đó, Đảng bộ, Chính quyền thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng công an, an ninh vững mạnh. Tổ chức tốt việc quản lý hộ khẩu hộ tịch, theo dõi tạm trú, tạm vắng, những đối tượng trộm cắp, gây gổ, phá rối trật tự… Vận động toàn dân nâng cao cảnh giác, tham gia tố giác tội phạm, giúp đỡ, giáo dục người lầm lỗi… Vì vậy tình hình an ninh trật tự trên địa bàn nhìn chung được giữ vững. Việc giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu kiện, các vụ việc tiêu cực xẩy ra được phát hiện, xử lý kịp thời nghiêm minh, đem lại niềm tin trong quần chúng nhân dân. Từ năm 1987, 1988, các quy ước nông thôn được xây dựng khá đầy đủ, là sự cụ thể hoá các chính sách, pháp luật của Nhà nước giúp cho người dân căn cứ thực hiện tốt, góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Trong nhiệm vụ quốc phòng, hàng năm Hồng Sơn đã thực hiện việc tuyển quân, giao quân từ 10 đến 11 thanh niên đi làm nghĩa vụ quân sự. Công tác tổ chức huấn luyện dân quân, tự vệ hàng năm đều được làm tốt. Nhiều năm Hồng Sơn được cấp trên công nhận là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể tiếp tục được thực hiện tốt, Đảng bộ thường xuyên làm tốt việc học tập, quán triệt đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng cấp trên. Công tác phê bình và tự phê bình, kiểm tra, giám sát, xếp loại đảng viên và các chi bộ được thực hiện một các nghiêm túc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức Đảng, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong công tác xây dựng đảng. Đảng bộ cũng thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, mỗi năm kết nạp được hàng chục quần chúng ưu tú vào Đảng. Thời gian này, thực hiện Chỉ thị 04 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng đảng viên, củng cố tổ chức đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ đã phân công các ủy viên về dự sinh hoạt ở các chi bộ để nghe ý kiến phản ánh, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ đảng viên và chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt. Đảng bộ còn tổ chức tốt việc tập huấn, bồi dưỡng cho chi ủy viên các chi bộ để nâng cao năng lực, phương pháp công tác, nội dung, chương trình sinh hoạt… Tổng kết công tác xây dựng đảng hàng năm, Đảng bộ Hồng Sơn có 58 - 60% chi bộ đạt vững mạnh, trên 40% chi bộ khá và trung bình, không có chi bộ yếu kém. Chính quyền, các đoàn thể trong hệ thống chính trị nhìn chung hoạt động tốt, phát huy vai trò của mình trong việc quản lý, điều hành, tập hợp vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.
Nhìn lại 5 năm đầu đổi mới (1986 - 1990), Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã tích cực thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, các chính sách, giải pháp mới của Nhà nước, thu nhiều thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế phát triển khá, năng suất sản lượng cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp tăng nhanh, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được mở mang. Cơ sở vật chất hạ tầng được xây dựng, củng cố. Văn hóa xã hội phát triển, ổn định. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên. Nhiệm vụ quốc phòng được bảo đảm, an ninh trật tự được giữ vững. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Bộ mặt quê hương có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh tế, một số mặt phát triển còn chậm và chưa vững chắc. Xã hội vẫn còn những tồn tại bức xúc, một số tệ nạn diễn ra chưa được đẩy lùi, hiện tượng trộm cắp, gây rối, rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan còn khá phổ biến. Chất lượng giáo dục còn thấp, một số học sinh sa sút phẩm chất. Hiện tượng bỏ học vẫn còn khá phổ biến. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có lúc thực hiện chưa tốt. Văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao nhiều lúc còn mang tính hình thức, thời vụ. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Một số chi bộ sinh hoạt chưa đều, chất lượng còn thấp, nghị quyết chi bộ tổ chức triển khai qua loa, thực hiện chưa nghiêm túc, triệt để. Một số đoàn thể nhân dân hoạt động chưa rõ nét, vai trò, hiệu quả hoạt động chưa cao. Đó là những tồn tại, khuyết điểm mà Hồng Sơn cần phải khắc phục để đưa phong trào của xã nhà tiếp tục đi lên trong thời gian tới.

II. THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM CỦA ĐẢNG (1991 – 2000)

1.  Năm năm đầu thực hiện Cương lĩnh 1991 của Đảng (1991-1995)
 Từ năm 1991, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở châu Âu tan rã, Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ, tác động to lớn đến tình hình nước ta, gây tâm trạng băn khoăn lo lắng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong bối cảnh đó Đảng ta vẫn tiếp tục gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới đất nước. Từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã tổng kết đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng kể từ Đại hội VI, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” nhằm tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tháng 11 năm 1991, Đại hội Đảng bộ Hồng Sơn lần thứ 19 nhiệm kỳ 1991-1994, được tổ chức. Đại hội đã đề ra các phương hướng chủ yếu như sau: Tập trung phát triển kinh tế, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 10%, điều tra quy hoạch đất lâm nghiệp để giao cho dân, thực hiện nghiêm túc các chương trình tiêm chủng, hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số xuống 1,7%, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh để đảm bảo được sự chỉ đạo chặt chẽ, có hiệu quả từ trên xuống. Tập trung xây dựng trạm hạ thế để đưa điện về xã. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí. Trong phiên họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Tăng Văn Huỳnh làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Xuân Thành  làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Phan Đăng Năm làm Ủy viên Thường vụ trực Đảng kiêm Chủ tịch Hội đông nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Xuân Phấn được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Đến năm 1992, đồng chí Phan Đăng Vân làm Phó Chủ tịch xã.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1991-1994, Hồng Sơn tập trung phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, văn hóa -  xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Để hoàn thành các mục tiêu do Đại hội Đảng bộ xã đề ra, trước hết về nông nghiệp, Hồng Sơn tiếp tục tập trung xây dựng, nâng cấp, cải tạo các công trình thủy nông trên địa bàn gồm các con đập và toàn bộ hệ thống kênh mương tưới tiêu, đảm bảo tưới cho hàng trăm ha lúa và một số diện tích khoai, ngô, rau, đậu lạc… Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực và phát triển theo hướng nông - lâm kết hợp, đẩy mạnh cả trồng trọt, chăn nuôi và trồng rừng.
Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, việc khoán ruộng đất cho người lao động đã làm cho bà con nông dân tự chủ trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư vốn, kỹ thuật và đã đem lại hiệu quả thiết thực. Năng suất, sản lượng cây trồng trong nông nghiệp tăng lên rõ rệt, đời sống của nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, do tác động của cơ chế thị trường, trong cả nước nhiều đơn vị hạch toán kinh doanh thua lỗ phải giải tán hoặc sáp nhập, cán bộ công nhân không có việc làm phải về địa phương sản xuất, cán bộ hành chính thì giảm biên chế theo chế độ 176, con em đủ 18 tuổi ngày càng đông, vì vậy nhu cầu về đất đai có thay đổi, đòi hỏi có sự điều chỉnh về ruộng đất. Trước tình hình đó, Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xã đã họp bàn chủ trương mới trong việc điều chỉnh ruộng đất, sau đó triển khai đến tận người dân. Sau khi cân đối, trừ đất 5%, đất xây dựng, thổ cư, số còn lại chia cho các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp theo số khẩu thực tế, kể cả người đi làm nghĩa vụ quân sự, số giảm biên chế. Để tận dụng hết diện tích các loại đất, tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương và thu nhập cho người dân, năm 1993  Ban Chấp hành Đảng bộ ra chủ trương khoán thầu đồi rừng, đập nước, ao hồ… chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa có hiệu quả. Với mức khoán hợp lý, những người nhận khoán mạnh dạn đầu tư giống cây, con, phân bón sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Năm 1993, 1994, thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ, Hồng Sơn tiến hành điều chỉnh lại đất đai, giao quyền chủ động canh tác cho người nông dân, ổn định trong vòng 20 năm. Cuối năm 1993, tinh thần nội dung Nghị định 64 được quán triệt trong cán bộ và nhân dân, Ban Chỉ đạo được thành lập gồm đồng chí Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, các đồng chí trong ngành Công an, Hội Nông dân, Địa chính, Văn phòng thống kê, Kế toán làm ban viên. Hai tiểu ban được thành lập gồm Ban điều tra hộ tịch, hộ khẩu và Ban điều tra quỹ đất. Công việc vô cùng phức tạp nhưng nhờ có hướng dẫn chu đáo của cấp trên nên công việc tiến hành trôi chảy. Với tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc, khách quan, Ban đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo ruộng đất cấp đúng, công bằng và hợp lý. Diện tích hai lúa và một lúa một màu được qui ra sản lượng và cân đối cho từng khẩu. Các loại đất khai hoang, phục hoá, chuyên màu ở xóm nào do xóm đó giải quyết.
Mức bình quân cho mỗi khẩu là 2 thước diện tích 5% loại hai lúa hoặc một lúa một màu, 10 thước nhu cầu cơ bản cùng hạng đất đó. Diện tích còn dư thuộc quỹ dự phòng. Ngoài ra tham khảo để gắn vào Chỉ thị 03 và kết quả thanh toán nợ vào việc cấp đất. Diện tích đất qui ra thóc để bình quân đạt 190 kg/khẩu/năm. Đất đai trong khu vực nhà trường, trạm xá, trụ sở thì cơ quan đó được sử dụng, không phải nạp thuế. Mỗi thầy cô giáo được mượn 5 thước ruộng để sản xuất cải thiện. Đất khai hoang, phục hóa của hộ nào đã đến hạn tiếp tục giao cho hộ đó quản lý sử dụng nhưng phải nạp thuế và các khoản đóng góp khẩu.
Về giống cây trồng, thời kỳ này Hồng Sơn đã đưa vào sản xuất một số giống mới như lúa Khang Dân… là những loại giống vừa cho năng suất cao vừa có chất lượng tốt được bà con nông dân ưa chuộng. Phân bón, kỹ thuật cũng được đầu tư cao hơn trước. Công tác bảo vệ thực vật được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Hợp tác xã nông nghiệp thường xuyên phối hợp với Trạm bảo vệ thực vật, Trạm giống cây trồng, Trạm vật tư nông nghiệp để cung ứng giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật chăm bón, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng. Nhờ vậy, mùa màng luôn được chăm lo, bảo vệ, năng suất sản lượng lúa, hoa màu ngày càng tăng lên. Vì thế năm 1990 tổng thu nhập GDP đạt 3,7 tỷ đồng, bình quân thu nhập tính theo đầu người đạt 1,23 triệu đồng/người/ năm thì đến năm 1995 tổng thu nhập GDP đạt 4,35 tỷ, tổng thu nhập tính theo đầu người đạt 1,33 triệu đồng/người/năm.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm luôn được coi trọng, phát triển theo hướng tăng dần số lượng và nâng cao chất lượng. Công tác thú y, phòng trừ dịch bệnh thường xuyên được quan tâm. nhân dân đã đầu tư mua các loại giống mới, hiệu quả cao, đầu tư mua thức ăn đầy đủ phục vụ cho chăn nuôi. Vì vậy đàn trâu bò tăng khá. Các loại gia cầm khác đều tăng. Chăn nuôi đã thực sự trở thành ngành chủ lực, một nguồn thu nhập lớn của người nông dân. Điều đó đã giúp người nông dân nâng cao đời sống, mua sắm các trang thiết bị nội thất đắt tiền và khang trang nhà cửa.
Lâm nghiệp bước đầu tạo được sự chuyển biến trong quản lý, chuyển dần từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội, khoanh nuôi cải tạo vốn rừng, bảo vệ rừng tái sinh kết hợp trồng mới. Là một xã thuộc vùng bán sơn địa, có diện tích đồi trọc lớn, Hồng Sơn được coi là một điểm trồng rừng quan trọng của Huyện. Thực hiện rừng có chủ, từng hộ được phát lâm bạ. Vì vậy công tác trồng cây gây rừng tuy chưa đem thu nhập tức thì song đồi trọc đã được phủ màu xanh. Chất đốt cho nhân dân cơ bản được giải quyết. Rừng đầu nguồn được khôi phục. Lượng nước các hồ đập được nâng lên rõ rệt. Những khu rừng trồng cây lấy gỗ đang hứa hẹn một nguồn thu nhập lớn trong tương lai. Kinh tế vườn cũng được quan tâm đúng mức. Những mảnh vườn tạp cây cỏ mọc tự nhiên đã trở thành vườn cây ăn quả có giá trị.
Tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển với các loại ngành nghề đa dạng, phong phú, dịch vụ thương mại ngày càng mở rộng, phục vụ thiết thực cho sản xuất và đời sống nhân dân, làm thay đổi dần cơ cấu tỷ trọng về kinh tế theo hướng tích cực.
Về xây dựng cơ bản, nhiệm vụ trọng tâm của Hồng Sơn trong thời gian này là việc xây dựng công trình điện. Xuất phát từ Nghị quyết Đảng bộ xã với sự đồng tình nhất trí và quyết tâm cao của toàn thể nhân dân, được Huyện quan tâm giúp đỡ xã đã xây dựng 1 trạm biến áp 320 KVA và hệ thống đường dây cao thế mang điện về phủ kín 9/9 xóm. Tổng giá trị công trình là 200 triệu đồng. Đến chiều ngày 27/12/1993 (âm lịch), công trình điện hoàn thành và bắt đầu được thắp sáng. Điện về trên đất Hồng Sơn, giấc mơ từ bao đời nay đã thành hiện thực. Giờ phút lịch sử của một cuộc sống văn minh đã đến với người dân Hồng Sơn. Ánh đèn dầu hoả lù mù đã được thay thế bằng ánh sáng rực rỡ của các loại bóng nê ông. Trên bàn thờ của các gia đình, bóng đèn nhấp nháy làm nổi bật màu sắc của các loại hoa. Tiếng loa cátsét, tiếng tivi rộn ràng vang lên trong mọi nhà. Ban đêm ở khu vực trung tâm xã điện sáng trưng như ban ngày. Những đêm sau đó hầu như không ai buồn ngủ. Mọi người muốn thức để tận hưởng không khí có điện đầu tiên trong đời. Từ đây cuộc sống của toàn thể người dân Hồng Sơn có nhiều khởi sắc.
Cũng trong thời gian này, Hồng Sơn còn tập trung nâng cấp các tuyến đường giao thông. Các tuyến đường trục chính trong thôn xóm được mở rộng 5-7m. Giao thông nội đồng kết hợp thủy lợi, bờ vùng, bờ thửa được củng cố. Xây dựng các công trình thủy lợi kết hợp giao thông… Ngoài ra, xã còn đầu tư xây dựng, tu sửa trạm y tế, trụ sở làm việc, xây dựng các nhà trẻ, phòng học cho các cháu mẫu giáo. Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục về việc tách trường Phổ thông cơ sở thành trường cấp I và cấp II, Hồng Sơn đã tập trung xây dựng, củng cố cơ sở vật chất cho 2 trường, đủ cho học sinh học hai ca, tạo điều kiện để dạy tốt học tốt.
Nhờ những cố gắng nói trên, nền kinh tế Hồng Sơn trong những năm 1990 – 1995 phát triển khá toàn diện, cơ cấu tỷ trọng các ngành sản xuất ngày càng hợp lý. Công tác thu ngân sách đã có nhiều cố gắng tạo ra các nguồn thu bao gồm các khoản thu đã có từ trước, tận thu nợ tồn đọng,  nhân dân đóng góp, hỗ trợ của cấp trên. Mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước và cấp trên đều hoàn thành nhanh gọn. Tỷ lệ hộ nghèo của xã năm 1990 là 25% thì đến năm 1995 chỉ còn 15%, đời sống nhân dân có những bước tiến mới.
Lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục ngày càng được chăm lo. Số trẻ trong độ tuổi được huy động đến lớp đạt tỷ lệ cao, chất lượng dạy học từng bước nâng lên, tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt nghiệp các cấp hàng năm đạt trên 95%, số học sinh giỏi, giáo viên dạy giỏi không ngừng tăng lên. Công tác phòng và điều trị bệnh có hiệu quả, không có dịch bệnh lây lan. Chương trình tiêm chủng được thực hiện nghiêm chỉnh. Phong trào văn hóa, văn nghệ được đẩy mạnh, phát triển thành phong trào quần chúng. Đội bóng đá của xã được củng cố và thường xuyên tập luyện, tham gia giao hữu, dự giải nhân các ngày lễ, tết. Hội Phụ nữ tổ chức các cuộc thi bổ ích như hát ru, mẹ khoẻ con ngoan, được chị em nhiệt tình, sôi nổi hưởng ứng.
Vào năm 1991, trạm y tế xã được chuyển từ xóm 1 về vùng nhà Thánh. Đến năm 1992, trạm được tổ chức UNIXEP tài trợ 50 triệu đồng để xây mới cơ sở hạ tầng. Trạm Y tế được biên chế đủ cán bộ nhân viên y tế có trình độ y sỹ, y tá, có năng lực chuyên môn có tinh thần phục vụ nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế xóm được quan tâm, đảm bảo chế độ đầy đủ và được học tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Công tác phòng trừ dịch bệnh, tiêm chủng định kỳ cho trẻ sơ sinh và phụ nữ có thai đều làm tốt. Phương tiện, thiết bị y dụng cụ được tăng cường mua sắm và bảo quản tốt. Nhân dân an tâm, tin tưởng khi đến khám và điều trị tại trạm. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, công tác Dân số/kế hoạch hóa gia đình thực sự được coi trọng, chăm lo. Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xã đã chỉ đạo ngành y tế phối hợp với các ngành, đoàn thể thực hiện nhiều biện pháp: tuyên truyền, vận động, thi đua, hành chính … để làm tốt công tác Dân số/kế hoạch hóa gia đình. Nhờ vậy tỉ lệ phát triển dân số giảm từ 2,0% xuống còn 1,7%. Số người vi phạm chính sách dân số/kế hoạch hóa gia đình, sinh con thứ 3 trở lên, nhất là đối với cán bộ, nhân viên ngày càng giảm xuống. Thời gian này, được sự giúp đỡ của quy nhi đồng Anh, xã Hồng Sơn đã tổ chức chương trình học tập, tập huấn về công tác trẻ em. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia trong và ngoài nước, các cán bộ ở Hồng Sơn được tổ chức học tập hàng tuần về công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Sau đó, được đưa đi tập huấn ở Hà Nội, ở Lào và Thái Lan về công tác này.
Công tác an ninh, quốc phòng thường xuyên được coi trọng, làm tốt. Việc xây dựng kế hoạch A, A2 hàng năm của xã đều được chuẩn bị chu đáo. Kế hoạch xây dựng chiến tranh nhân dân, thường xuyên có sự phối hợp với các đơn vị đóng trên địa bàn để phối hợp hành động khi có chiến tranh xẩy ra, nắm chắc lực lượng dự bị động viên để huy động khi có chiến tranh xẩy ra. Lực lượng nòng cốt của xã có 3 tiểu đội, được biên chế thành 1 trung đội với tổng số 25 người. Tổng số dân quân là 72 người, chiến 2% dân số. Kế hoạch huấn luyện hàng năm hoàn thành tốt, 100% đạt yêu cầu, trong đó 78% là khá giỏi. Hàng năm đều giao đạt quân số nghĩa vụ, năm 1992 là 9 đồng chí, năm 1995 là 6 đồng chí. 100% đều hoàn thành tốt nghĩa vụ không có đồng chí nào bỏ ngũ. Để đảm bảo an ninh thôn xóm các tổ an ninh ở các xóm được kiện toàn với 9 đồng chí công an viên. Tổ hòa giải ở các xóm sinh hoạt có nề nếp, có nhiều hoạt động thiết thực.
Công tác chính sách xã hội luôn được địa phương quan tâm. Chính sách hậu phương quân đội, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được Chính quyền, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và toàn dân thực hiện tốt. Việc đóng góp, ủng hộ xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm cho các gia đình chính sách được đông đảo nhân dân hưởng ứng tích cực.
Công tác xây dựng đảng thời kỳ này được đặc biệt coi trọng. Nghị quyết Đảng bộ khóa XIV đã xác định: muốn thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội trước hết phải chỉnh đốn và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân, coi đây là vấn đề cấp bách nhằm phù hợp với nguyện vọng của quần chúng. Đảng uỷ quan tâm đúng mức việc nâng cao chất lượng đảng viên. Đảng ủy còn cử cán bộ đi đào tạo, dự học các lớp trung cấp, sơ cấp lý luận và quản lý ruộng đất. Trong tình hình thế giới có những biến động phức tạp khó lường, công tác tư tưởng, chính trị luôn được đặt lên hàng đầu. Do vậy, Đảng bộ luôn làm tốt việc tổ chức học tập, quán triệt đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, hàng tháng làm tốt công tác thông tin về thời sự, chính sách cho cán bộ, đảng viên và tuyên truyền trong nhân dân, từ đó góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Các chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp được xây dựng và thực hiện có hiệu quả, góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội. Công tác phát triển đảng viên mới được chăm lo, đảm bảo số lượng và chất lượng. Năm 1991 kết nạp 1 đảng viên mới, năm 1993 là 4 đảng viên mới, năm 1994 là 7 đảng viên mới và năm 1995 là 6 đảng viên mới. Việc kiện toàn chi ủy ở xóm được tiến hành 2 năm một lần, từng bước nâng cao chất lượng cán bộ. Công tác thanh tra, kiểm tra Đảng đã tổ chức xử lý 20 trường hợp, trong đó khai trừ 4, xóa tên 7, cảnh cáo 5, cách chức 1 và chấp nhận 3 đơn xin ra khỏi Đảng. Chất lượng đảng viên ngày càng được nâng cao, năm 1994 có 18% đảng viên loại 1, 70% đảng viên loại 2 và 8% đảng viên loại 3, đến năm 1995 có 34% đảng viên loại 1, 71,6% đảng viên loại 2 và 4% đảng viên loại 3.
Vào cuối năm 1990, 13 đội sản xuất được đổi thành 13 xóm. Để nghị quyết của Đảng được triển khai thực hiện có hiệu quả cao nhất, Đảng bộ, chính quyền Hồng Sơn đã không ngừng đổi mới cơ chế lãnh đạo và quản lý, điều hành. Những điểm cơ bản của sự đổi mới trước hết là việc thành lập Ban Thi đua và phát động một phong trào thi đua toàn diện giữa các xóm. Ban Thi đua do đồng chí Bí thư Đảng uỷ trực tiếp làm trưởng ban, đồng chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm phó ban, trưởng ban các ngành và đoàn thể làm ban viên. Các đồng chí Kế toán và Văn phòng chịu trách nhiệm theo dõi tổng hợp. Ở xóm, đồng chí bí thư chi bộ kiêm xóm trưởng làm trưởng ban, trưởng các đoàn thể làm ban viên.
Thực hiện Nghị quyết 17 của Tỉnh ủy, Hồng Sơn tiến hành cơ cấu chức danh bí thư chi bộ kiêm xóm trưởng ở các xóm. Mô hình này đã phát huy hiệu quả, tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành về một đầu mối, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Nề nếp sinh hoạt của Đảng bộ và các chi bộ được thực hiện nghiêm túc, từng bước nâng cao chất lượng. Công tác tổ chức, kiểm tra, dân vận và công tác đảng viên được quan tâm làm tốt, nhờ vậy chất lượng tổ chức đảng và đảng viên không ngừng được nâng lên. Các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị đã phát huy cao vai trò của mình trong việc tập hợp động viên nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể duy trì tốt hoạt động, tạo được chuyển biến tích cực, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, động viên thi đua phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Ở cấp xóm, các tổ chức chi đoàn, chi hội đều được kiện toàn lại theo định kỳ. Nhằm tạo điều kiện hoạt động cho các đoàn thể, Đảng uỷ chủ trương trích một số ruộng để sản xuất lập quỹ. Mỗi xóm được cấp 5 sào ruộng cho 5 đoàn thể, chỉ phải nạp thuế và miễn các khoản đóng góp khác, đồng thời đầu tư cho hội người cao tuổi 1 triệu đồng để lập quỹ Bảo thọ.
Ngày 5 tháng 3 năm 1991, Hội Cựu chiến binh xã Hồng Sơn được thành lập do đồng chí Thái Thanh Tâm là Chủ tịch hội. Việc thành lập Hội Cựu chiến binh là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, của những người từng là cán bộ chiến sỹ trong quân đội, nhằm tập hợp, phát huy vai trò, kinh nghiệm, bản lĩnh của các cựu chiến binh góp phần xây dựng quê hương đất nước. Có thể nói, ngay từ khi được thành lập Hội Cựu chiến binh đã trở thành một đoàn thể chính trị vững mạnh, có vị thế, có tiếng nói quan trọng trong mọi công việc, tham gia bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, góp phần ổn định, phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Trong 10 năm đầu đổi mới, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã giành được nhiều kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá. Năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi tăng nhanh. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật được tăng cường tu bổ, xây dựng đáng kể. Văn hóa - xã hội có bước tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Công tác đảm bảo quốc phòng được thực hiện tốt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Hồng Sơn vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần phải quan tâm khắc phục. Không ít cá nhân trong cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề đổi mới cơ chế quản lý dẫn đến bảo thủ, trì trệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi. Trong sản xuất nông nghiệp, Ban khuyến nông làm chưa tốt cả khâu hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cũng như khâu dịch vụ. Các loại gia súc phát triển chưa đồng đều. Giao thông trong thôn xóm, trên đồng ruộng chưa được nâng cấp hoàn chỉnh, chỉ đạo thiếu kiên quyết, còn vin vào việc thiếu kinh phí. Vì vậy một số mặt phát triển chậm, nhất là trong thời kỳ đầu. Xã hội vẫn còn nhiều tồn tại, bức xúc, một số tệ nạn như trộm cắp, gây gổ, tranh chấp, cờ bạc, rượu chè bê tha… vẫn còn xẩy ra. Chất lượng giáo dục con thấp, ngành y tế có lúc, có nơi chưa làm tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị có lúc vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.  Quy chế làm việc của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể duy trì có lúc chưa thật nghiêm túc, công việc giải quyết có lúc còn trùng lặp hạn chế hiệu suất. Một số chi bộ sinh hoạt chưa có nề nếp, thường xuyên, chất lượng còn thấp. Nghị quyết chi bộ triển khai qua loa, thực hiện chưa nghiêm túc, triệt để. Một số đoàn thể nhân dân hoạt động chưa rõ nét, vai trò, hiệu quả hoạt động chưa cao. Việc sàng lọc nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, làm trong sạch trong nội bộ Đảng còn thiếu kiên quyết… Đó là những tồn tại, khuyết điểm mà Hồng Sơn cần phải thấy rõ, phải khắc phục để tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
Tháng 4/1994, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 20 nhiệm kỳ 1994-1995, được tổ chức tại Hội trường xã. Trên cơ sở những thắng lợi về mọi mặt đã giành được trong nhiệm kỳ trước, phát huy thế tiến công, liên tục phấn đấu vươn lên, Đại hội đã đề ra những mục tiêu chủ yếu sau đây: về kinh tế nâng tổng sản lượng lương thực quy thóc; tăng đàn trâu, bò, lọn và gia cầm; phát triển công tác văn hóa, giáo dục, y tế; đảm bảo an ninh quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
  Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Tăng Văn Huỳnh được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Xuân Thành được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Ủy viên thường vụ trực Đảng, kiêm Chủ tịch hội đồng nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Xuân Phấn làm Phó Chủ tịch xã.
Ngay sau Đại hội Đảng bộ, Chi uỷ chi bộ các xóm cũng được kiện toàn lại đầy đủ về số lượng và nâng cao chất lượng. Tiếp đó, Ban Chấp hành đã khẩn trương triển khai lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết và các chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ đề ra và đã đạt được một số kết quả như:
Tổng sản lượng lương thực năm 1994 đạt 908 tấn, bình quân lương thực tính trên đầu người đạt 273 kg/người/năm; năm 1995 tổng sản lượng lương thực đạt 998 tấn, bình quân lương thực là 299 kg/người/năm. Diện tích trồng đậu và vừng năm 1994 là 50 ha sản lượng 54 tấn thì năm 1995 là 61 ha, sản lượng 72 tấn. Về chăn nuôi tổng đàn trâu bò năm 1994 là 896 con thì năm 1995 là 1020 con, tổng đàn lợn năm 1994 là 1120 con thì năm 1995 là 1216 con. Về lâm nghiệp, tổng diện tích rừng đã giao năm 1994 là 275 ha thì năm 1995 là 313 ha, tổng số cây đã trồng được trong 2 năm là 44 vạn cây, số hộ tham gia nhận rừng là 570 hộ. Đối với nghành nghề, dịch vụ tính đến năm 1995 toàn xã có 48 người làm nghề mộc, 6 hộ làm nghề rèn, 12 hộ làm máy xay xát, 18 hộ làm nghề may mặc, 4 hộ làm nghề khai thác đá. Về xây dựng cơ bản, đã huy động 15,5 ngàn ngày công, đào đắp 6250 m3 đất đá để làm đường giao thông nông thôn và giao thông nội đồng. Trong 2 năm đã sửa chữa và làm mới 8 cống, 2 cây cầu và mua 200 cống xi măng các loại để phục vụ cho giao thông và thủy lợi. Đối với công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, năm 1995 đã có 260 người điều trị tại trạm, có 33 cháu sinh tại trạm y tế. Trạm đã tổ chức tốt công tác tiêm chủng định kỳ cho trẻ. Thực hiện công tác kế hoạch hóa gia đình đã có 68 trường hợp đặt vòng, triệt sản ngoài ra có 510 người khác sử dụng các biện pháp tránh thai khác. Công tác tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình đã có hiệu quả tốt vì thế năm 1994 có 39 trường hợp vi phạm thì đến năm 1995 chỉ còn 11 trường hợp. Về an ninh quốc phòng hàng năm xã đều hoàn thành tốt công tác huấn luyện, trong đó quân số thường xuyên của xã là 24 đồng chí. Các vụ việc xây ra trên địa bàn đã sớm được phát hiện và xử lý kịp thời. Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể có những bước tiến mới. Trong đó, năm 1994 toàn đảng bộ có 124 đồng chí thì đến năm 1995 có 133 đồng chí. Hàng năm  Đảng bộ đều làm tốt công tác phân loại đảng viên, trong đó năm 1994 có 97 đồng chí dự phân loại thì loại 1 có 18 đồng chí, loại 2 có 68 đồng chí, loại 3 có 8 đồng chí và 4 đồng chí loại 4. Còn năm 1995 công tác phân loại đảng viên có 99 đồng chí tham dự, trong đó có 20 đồng chí loại 1, 73 đồng chí loại 2, 4 đồng chí loại 3 và 2 đồng chí loại 4. Công tác phát triển Đảng được chú trọng, trong nhiệm kỳ 1994-1995 đã bồi dưỡng 34 đồng chí và kết nạp mới được 13 đồng chí.

2. Bước đầu thực hiện đường lối CNH, HĐH của Đảng (1996 – 2000)

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn và nghị quyết đại hội Đảng các cấp, Hồng Sơn đã thu được nhiều kết quả trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng đảng và hệ thống chính trị. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, bộ mặt quê hương có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Hồng Sơn vẫn còn một số khuyết điểm yếu kém. Đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện nhưng chưa đồng đều, trình độ sản xuất còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chậm phát triển, xã hội còn nhiều tồn tại, bức xúc.
Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, để tiếp tục lãnh đạo nhân dân kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới, tháng 9/1995, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 21 nhiệm kỳ 1995 – 2000, đã được tổ chức tại Hội trường xã. Đại hội đã kiểm điểm đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ trước và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Xuân Thành được bầu làm Bí thư, đồng chí Phan Đăng Vân được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Ủy viên Thường trực Đảng kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Xuân Phấn và đông chí Trần Văn Tý làm Phó Chủ tịch xã. Đến năm 1997, đồng chí Nguyễn Văn Thành lên làm Chủ tịch xã thay đồng chí Phan Đăng Vân, năm 1998 đồng chí Nguyễn Xuân Phấn lên làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Xuân Thành, đồng chí Hoàng Văn Hải lên thay đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Trực Đảng, đồng chí Trần Văn Ngọc lên làm Phó Chủ tịch thay đồng chí Nguyễn Xuân Phấn. Đồng chí Hoàng Văn Sơn làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Đô Lương với chương trình “Năm hóa” và đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Hồng Sơn tiếp tục đẩy mạnh phát triển toàn diện các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng đảng và hệ thống chính trị.
Về phát triển kinh tế, nông nghiệp vẫn luôn được coi là ngành chính của Hồng Sơn. Trên cơ sở diện tích tương đối ổn định, xã chỉ đạo tăng số lần trồng một cách hợp lý. Từ chỗ mỗi năm 2 vụ, một tỷ lệ khá lớn diện tích được đưa lên 3 vụ, trong đó vụ 3 trồng luân phiên cây ngô, khoai lang, đậu và rau màu khác. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật về thâm canh cây trồng được áp dụng tích cực, rộng rãi. Công tác dự tính, dự báo bố trí thời vụ hợp lý để luồn tránh thiên tai được coi trọng. Việc tưới tiêu nước cũng được chủ động hơn nhờ các con đập và hệ thống kênh mương không ngừng được củng cố, nâng cấp. Bên cạnh đó, riêng về cây lúa, chính quyền, hợp tác xã đã tích cực đưa các giống mới đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả vào đồng ruộng. Nhờ các yếu tố trên, cộng với thời tiết trong thời gian này cơ bản thuận lợi nên Hồng Sơn liên tục được mùa. Vì thế, tổng sản lượng lương thực năm 2000 đạt 1300 tấn tăng 400 tấn so với năm 1996, năng suất lúa bình quân năm 2000 là 54 tạ/ha tăng 20 tạ so với năm 1996. Bình quân thu nhập về đầu người năm 1996 là 1,1 triệu đồng/người thì đến năm 2000 là 1,9 triệu đồng/người; bình quân lương thực tính theo đầu người năm 1996 là 290 kg/người thì đến năm 2000 là 400kg/người.
Chăn nuôi có bước phát triển khá. Đàn gia súc, gia cầm tăng cả về số lượng, chất lượng. Chương trình sind hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn được triển khai và ứng dụng có hiệu quả. Đàn trâu bò không ngừng phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng. Việc phòng chống  dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được chỉ đạo, thực hiện tích cực. Tỷ lệ tiêm phòng hàng năm đạt trên 80% tổng đàn. Chính vì vậy mà năm 2000 tổng đàn trâu bò của xã là 1080 con, tăng 282 con so với năm 1996. Đàn lợn năm 1996 chỉ có 950 con, trong đó có 80 con lợn nái và trọng lượng xuất chuồng là 60 kg/con thì đến năm 2000 tổng đàn lợn có 1500 con, trong đó lợn nái là 350, trọng lượng xuất chuồng bình quân đạt 80 kg/con. Phong trào chăn nuôi cá ở các ao hồ, đập phát triển mạnh, nhiều hộ đã hợp đồng với Uỷ ban nhân dân xã nhận nuôi cá ở các con đập. Vì thế, thu nhập từ đánh bắt cả năm 2000 đạt 4,5 tấn tăng 2 tấn so với năm 1996.
Về lâm nghiệp, Đảng bộ, Chính quyền xã đã xây dựng cơ chế chính sách cụ thể để khuyến khích trồng cây lâm nghiệp, phủ xanh đất trống đồi trọc. vì thế hàng năm có 10 ha rừng trống, đồi trọc được trồng mới. Nhiều mô hình nông - lâm kết hợp, các hình thức kinh tế trang trại bước đầu đã mang lại kết quả tốt, cho thu hoạch khá cao. Việc cải tạo vườn tạp cũng tăng đáng kể, năm 1996 có 219 hộ cải tạo đến năm 2000 có 502 hộ. Năm 1997, xã Hồng Sơn được công nhận là xã miền núi.
Về công tác xây dựng cơ bản, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Đô Lương lần thứ XVI, Ban Chấp hành Đảng bộ Hồng Sơn đã xây dựng chương trình hành động thực hiện chương trình “Năm hóa”. Mục tiêu ưu tiên là giao thông, thủy lợi, kênh mương bê-tông, củng cố nâng cấp đường điện hạ thế, tu sửa kiên cố hóa trưòng học. Cụ thể, đã xây dựng 2 lớp học mầm non ở xóm 6 và 7 trị giá 20 triệu đồng; xây mới 6 phòng học và 2 văn phòng trường cấp 1 và 2 trị giá 200 triệu đồng; xây dựng hệ thống đài truyền thanh trị giá 20 triệu đồng; xây dựng 3 km kênh mương bê tông trị giá 390 triệu đồng; xây dựng trạm điện số 2 trị giá 125 triệu đồng. Nhờ vậy, cảnh quan của Hồng Sơn ngày càng thêm đổi mới. Toàn bộ hệ thống đường giao thông nông thôn, đường liên hương, liên thôn cũng được nâng cấp, mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại sinh hoạt, làm ăn. Hệ thống đê đập, kênh mương, cầu cống được tu sửa thường xuyên đảm bảo cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân.
Phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, để bày tỏ lòng biết ơn và tiếc thương vô hạn những người con của quê hương đã ngã xuống trên các chiến trường, Đảng bộ Hồng Sơn đã ra chủ trương xây dựng Nhà bia để tưởng niệm liệt sỹ của xã nhà hy sinh trong các cuộc kháng chiến với số tiền lên đến 90 triệu đồng. Công trình được khẩn trương thi công và hoàn thành vào ngày 25/7/1997, vừa đúng dịp tổ chức kỷ niệm 50 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ. Công trình Nhà bia tưởng niệm đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của cán bộ và nhân dân Hồng Sơn, làm đẹp vong linh của những người con đã khuất.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm, tạo mọi điều kiện để phát triển. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 - Khóa VIII, Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội luôn chăm lo công tác giáo dục đào tạo, động viên toàn dân quan tâm việc học tập của con em. Mục tiêu đầu tiên là huy động hết số trẻ trong độ tuổi đến trường, từng bước nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục từng bước được xã hội hóa. Hàng năm địa phương đều tổ chức hội nghị giáo dục cấp xã để đánh giá, tổng kết công tác giáo dục năm trước và đề ra phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ cho năm tới. Việc khen thưởng các thành tích của thầy và trò được quan tâm làm tốt, góp phần động viên sự thi đua phấn đấu dạy tốt, học tốt. Phong trào xây dựng quỹ khuyến học được phát động và thực hiện sôi nổi trong toàn xã. Tất cả các tổ chức đoàn thể, chính quyền, nhà trường, các xóm, các dòng họ… đều có quỹ khuyến học để khen thưởng, động viên con em học tập tốt. Đến năm 2000, tổng quỹ khuyến học toàn xã đạt hàng chục triệu đồng. Nhờ sự quan tâm động viên, khích lệ và sự nỗ lực vươn lên của thầy trò ở các trường, chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng được nâng lên. Số lượng, chất lượng đội ngũ học sinh giỏi và giáo viên dạy giỏi các cấp tăng lên hàng năm. Nếu năm học 1995-1996 trường tiểu học 3 giáo viên và 8 học sinh giỏi cấp huyện thì đến năm học 1999-2000 có 2 học sinh giỏi tỉnh, 3 học sinh giỏi huyện và 9 giáo viên giỏi huyện; đối với trường Trung học cơ sở năm học 1995-1996, chỉ có 4 học sinh giỏi huyện, chưa có giáo viên giỏi huyện thì đến năm học 1999-2000 có 20 em học sinh giỏi huyện và 2 giáo viên giỏi huyện. Kết quả đỗ tốt nghiệp năm sau cao hơn năm trước, cụ thể đối với trường Tiểu học năm học 1995-1996 tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 95% đến năm 2000 là 98,2%; đối với trường Trung học cơ sở tỷ lệ đỗ tốt nghiệp năm học 1995-1996 là 45% thì đến năm 2000 là 71%. Số học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng năm sau cao hơn năm trước. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học đảm bảo vững chắc, từng bước phổ cập trung học cơ sở.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển. Đội ngũ cán bộ y tế có 4 người và 9 y tá viên ở cơ sở. Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có chuyển biết tốt. Việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được chú trọng. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm xuống đáng kể. Trên 98% trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng. Công tác Dân số/kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, xã đã thành lập Ban Dân số/kế hoạch hóa gia đình và hệ thống cộng tác viên dân số. Các chương trình truyền thông dân số, các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được triển khai rộng rãi và đạt kết quả tốt với 760 người dùng các biện pháp tránh thai như đặt vòng, đình sản… Số người vỡ kế hoạch, vi phạm chính sách dân số ngày càng giảm.
Bám sát tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 - Khóa VIII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh, Đảng bộ, Chính quyền đã lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ, các xóm, các tổ chức đoàn thể, nhà trường, dòng họ và toàn thể nhân dân thi đua xây dựng và thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội đảm bảo văn minh, tiết kiệm. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được phát động, thực hiện sôi nổi và có hiệu quả. Nhiều làng xóm, trường học, cơ quan, dòng họ, gia đình đã đăng ký phấn đấu và đạt danh hiệu văn hóa. Hàng năm việc tổng kết, bình bầu, suy tôn đề nghị công nhận các danh hiệu văn hóa được tổ chức chu đáo, công bằng, chính xác, từ đó có tác dụng động viên mọi cá nhân, tập thể phấn đấu trong thời gian tiếp theo. Kết quả, năm 1996, có 1,2 % gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa cấp huyện và 10% gia đình đạt văn hóa cấp xã thì đến năm 2000 có 2% gia đình đạt văn hóa cấp huyện và 35% gia đình đạt văn hóa cấp xã. Cùng với phát triển kinh tế, mức hưởng thụ văn hóa của người dân Hồng Sơn cũng được nâng lên rõ rệt bình quân năm 2000, có 76% số hộ gia đình có phương tiện nghe, nhìn, bình quân cứ 3 hộ thì 1 hộ có ty vi. Các hoạt động văn hoá - văn nghệ, thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh và ngày càng làm tốt. Mạng lưới loa truyền thanh được lắp đặt và hoạt động có hiệu quả góp phần tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Xã đã thành lập được một đội văn nghệ không chuyên, tổ chức luyện tập và biểu diễn nhân các ngày lễ lớn, mừng Đảng mừng Xuân.
Hàng năm xã và các xóm còn tổ chức lễ yến lão đầu xuân cho các cụ lên tuổi chẵn 70, 80, 90... thể hiện đạo lý kính trọng, biết ơn và chăm sóc người cao tuổi. Ngoài ra Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn còn thực hiện tốt phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” và các quy định, chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng, phát động phong trào ủng hộ người nghèo, người già cả neo đơn, ủng hộ đồng bào bị thiên tai ... Trong 5 năm Hồng Sơn đã xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa hàng chục triệu đồng và xây dựng nhà tình nghĩa cho ông Phạm Ngọc Ky – gia đình liệt sỹ, bản thân ông bị cụt mất một tay và hỏng mát một mắt. Phong trào thể dục thể thao được phát động và duy trì tốt, thu hút đông đảo nhân dân đủ các lứa tuổi tham gia. Tổ chức thường xuyên các giải thể thao nhân các dịp lễ tết, tạo không khí vui tươi phấn khởi, góp phần rèn luyện nâng cao sức khỏe nhân dân.
Công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh được coi trọng. Theo chủ trương của cấp trên, Hồng Sơn đã thành lập Ban Chỉ đạo an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Ban Chỉ đạo đã tham mưu cho Đảng ủy, Chính quyền lên kế hoạch và biện pháp thực hiện hàng năm, thường xuyên phổ biến và duy trì chế độ sẵn sàng chiến đấu theo chỉ lệnh của cấp trên. Ngoài ra xã còn thành lập B nòng cốt 22 người, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có tình huống đột xuất xẩy ra. Công tác huấn luyện dân quân, tự vệ được tiến hành tốt, đạt 100% chỉ tiêu đề ra hàng năm, trong đó trong các cuộc huấn luyện có từ 70-75% đạt kết quả kiểm tra khá, giỏi. Việc xây dựng các phương án tác chiến, kế hoạch xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, phòng chống bạo loạn lật đổ, phòng chống bão lụt, phòng chống cháy rừng được tổ chức thường xuyên. Công tác khám tuyển, gọi thanh niên nhập ngũ được tiến hành tốt, chỉ tiêu nhập ngũ hàng năm đạt 100%. Từ năm 1996 – 2000, Hồng Sơn đã có hàng chục thanh niên lên đường làm nhiệm vụ. Lực lượng an ninh ở địa phương được lựa chọn chu đáo, là những người có đầy đủ sức khỏe, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao. Thời gian này ở mỗi xóm có 1 công an viên. Tổ chức công an xã hàng năm xây dựng kế hoạch hoạt động tổ chức quản lý chặt chẽ hộ tịch, hộ khẩu, đăng ký tạm trú, tạm vắng, có sổ phân loại các đối tượng để chủ động đối phó, xử lý khi có vụ việc xẩy ra. Lực lượng an ninh còn đấu tranh loại trừ và ngăn chặn các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, ma túy ..., các đối tượng vi phạm Chỉ thị 406/TTg về cấm buôn bán, tàng trữ và đốt pháo nổ; Nghị định 87/CP về tăng cường quản lý văn hóa và các dịch vụ văn hóa. Các vụ việc vi phạm, tiêu cực xẩy ra đều được xử lý kịp thời, nhờ đó tình hình an ninh trật tự trên địa bàn nhìn chung ổn định, nhân dân yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống.
Công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể luôn được coi trọng. Việc giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên luôn được đặt lên hàng đầu. Đảng bộ đã tổ chức học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp một cách nghiêm túc và có chất lượng, từ đó nhận thức, lập trường, quan điểm của đảng viên được nâng lên. Chế độ sinh hoạt của Đảng bộ đã được duy trì đều đặn, phát huy cao tinh thần phê bình và tự phê bình, nắm bắt thường xuyên, kịp thời tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Ban Chấp hành đã phân công các ủy viên về dự sinh hoạt ở các chi bộ, các xóm, đối thoại trực tiếp với đảng viên và nhân dân, góp phần giải quyết kịp thời những vướng mắc về tư tưởng, tạo ra sự đồng thuận cao. Công tác tổ chức cán bộ thường xuyên đựơc coi trọng làm tốt. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 - Khóa VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Ban Chấp hành Đảng bộ đã xây quy hoạch, bố trí sắp xếp, sử dụng, đào tạo cán bộ một cách hợp lý. Trong 5 năm (1996 – 2000), Đảng ủy đã kết nạp 17 đảng viên mới, phổ cập bổ túc văn hóa cấp 3 cho 16 đồng chí, gửi đi đào tạo trung cấp chính trị 4 đồng chí, trung cấp thú y 3 đồng chí, trung cấp văn hóa 1 đồng chí, trung cấp kế toán 1 đồng chí, trung cấp khuyến nông 2 đồng chí và 1 đồng chí đi học đại học tại chức. Công tác kiểm tra của Đảng cũng được thực hiện nghiêm túc. Uỷ ban kiểm tra Đảng ủy đã thực hiện tốt chế độ kiểm tra định kỳ, đột xuất và hướng dẫn thực hiện tốt việc tự kiểm tra của các chi bộ. Những nơi có dấu hiệu vi phạm được kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tổng số đảng viên năm 2000 là 142 đồng chí, trong đó có 20 đồng chí đảng viên nữ, 6 đồng chí có tuổi đảng 50 năm và 5 đồng chí có tuổi đảng 40 năm. Năm 1996-1997, Đảng bộ xếp loại yếu thì đến năm 1998-1999, xếp loại khá.
Chính quyền và các đoàn thể hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả. Hội đồng nhân dân xã hoạt động đúng luật định, hàng năm có kế hoạch bố trí tiếp xúc cử tri để lắng nghe nắm bắt ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời giải quyết những kiến nghị, đề xuất của cử tri. Hội đồng nhân dân cũng tổ chức tốt các kỳ họp, ra nghị quyết sát đúng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của địa phương, Ủy ban nhân dân thực hiện tốt chức năng quản lý, điều hành. Sau khi Nghị định 29/CP về quy chế dân chủ cơ sở ra đời, mọi chủ trương được công khai bàn bạc đến tận người dân, thực hiện công khai kinh tế, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể làm tốt nhiệm vụ tập hợp quần chúng nhân dân, vận động thành viên, đoàn viên, hội viên thực hiện tích cực và có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng quê hương ngày càng phát triển đi lên.
Các hội đoàn thể đến năm 2000 như Đoàn thanh niên xã có 312 đồng chí, hội phụ nữ có 830 hội viên, hội nông dân có 1050 hội viên, hội cựu chiến binh có 121 hội viên và hội người cao tuổi có 375 hội viên.
Trong 5 năm (1996 - 2000), tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới với chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã thu được nhiều kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế tăng trưởng mạnh, bộ mặt địa phương có nhiều khởi sắc; văn hóa - xã hội phát triển tích cực; quốc phòng - an ninh tiếp tục được giữ vững; đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, Hồng Sơn vẫn còn một số tồn tại, khuyết điểm cần phải lưu ý. Cơ cấu kinh tế thay đổi chưa mạnh theo hướng tích cực, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng vẫn có thời điểm khó khăn về lương thực. Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại phát triển chưa mạnh, chưa có nhiều ngành nghề đem lại thu nhập cao, chưa có nhiều mô hình kinh tế đáng chú ý. Hiệu quả kinh tế đồi rừng còn thấp, các tiềm năng lợi thế về lao động, đất đai, tài nguyên nói chung chưa được phát huy cao. Một số khó khăn vướng mắc trong phát triển kinh tế chậm được tháo gỡ. Cơ sở vật chất của các cơ quan, đơn vị, trường học chưa đáp ứng yêu cầu. Xã hội vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp… chưa được đẩy lùi. Hiện tượng mất dân chủ vẫn còn tồn tại ở một số xóm. Hoạt động của chính quyền chưa phát huy hết vai trò, chức năng, công tác điều hành có lúc còn hạn chế. Chất lượng một bộ phận đảng viên, vai trò lãnh đạo của một số chi bộ, tổ chức đoàn thể đang còn bất cập so với yêu cầu. Trong sinh hoạt Đảng và đoàn thể, tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình của đảng viên, đoàn viên, hội viên còn yếu, tư tưởng hữu khuynh né tránh, bảo thủ trì trệ còn phổ biến ... Đó là những điều mà Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn cần nỗ lực phấn đấu khắc phục trong thời gian tới để tạo ra sự phát triển tích cực hơn nữa.

III. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ HỒNG SƠN TIẾP TỤC THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2001 - 2013)

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng mạnh, văn hoá - xã hội có bước phát triển tích cực, an ninh quốc phòng được giữ vững. Thế và lực của đất nước được tăng cường, nhân dân phấn khởi tin tưởng, tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội tăng cao. Trong thắng lợi chung của cả nước, nhân dân Hồng Sơn cũng thu được những kết quả đáng tự hào, bộ mặt quê hương có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Để lãnh đạo phát huy những thành quả đã đạt được và hạn chế những khuyết điểm, yếu kém, đưa Hồng Sơn ngày càng phát triển đi lên, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, ngày 19 tháng 9 năm 2000, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 22 nhiệm kỳ 2000 – 2005, được tổ chức tại hội trường xã. Đại hội đã kỉểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 1996 – 2000, và đề ra phương hướng, chỉ tiêu, nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trong nhiệm kỳ 2000 - 2005. Cụ thể:
- Tổng giá trị sản xuất thu nhập xã hội đạt 7,5 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng hàng năm 8%.
- Tỷ trọng cơ cấu thu nhập xã hội: Nông nghiệp chiếm tỷ lệ 42,5%, chăn nuôi 29,5%, thủ công nghiệp và dịch vụ 10%, thu khác 18%.
- Bình quân thu nhập đầu người đạt 2,2 triệu đồng/người
- Xóa đói và giảm hộ nghèo xuống dưới 7%
- Ổn định tốc độ phát triển dân số dưới 1%
- Phổ cập trung học cơ sở vào năm 2005
- Phấn đấu Đảng bộ xếp loại Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hàng năm kết nạp từ 20-30 đảng viên.
- 100% các nghành, các cấp, các tổ chức đoàn thể của xã xếp loại khá trở lên
- Tiếp tục gửi cán bộ đi học tập ngắn hạn và dài hạn
- Tổng thu ngân sách đạt 600 triệu đồng
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ sở hạ tầng như kênh mương, trường học, đến năm 2002 trường Mẫu giáo và trường Cấp 1 đạt trường khá còn trường cấp 2 đạt trường tiên tiến.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Xuân Phấn được bầu làm Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Văn Thành được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Hoàng Văn Hải được bầu làm Ủy viên Thường trực Đảng ủy, đồng chí Trần Văn Tý làm Phó Chủ tịch xã. Đến năm 2004 đồng chí Nguyễn Văn Thành lên làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Xuân Phấn, đồng chí Hoàng Văn Hải lên thay đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Chủ tịch xã kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Trần Văn Tý thay đồng chí Hoàng Văn Hải làm Trực Đảng, đồng chí Lê Đức Tiến lên làm Phó Chủ tịch xã thay đồng chí Trần Văn Tý.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, trong những năm 2000 – 2005, Hồng Sơn đã xây dựng chương trình hành động trên các lĩnh vực, trong đó đánh giá một cách khách quan những thuận lợi, khó khăn, những tiềm năng lợi thế và thách thức của địa phương, tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tích cực chủ động tìm tòi, học hỏi, áp dụng nhiều mô hình mới vào thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội địa phương từ đó tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện hơn.
Về phát triển kinh tế: Phát huy những thành quả đã đạt được, Hồng Sơn tích cực phấn đấu để tạo ra sự cân đối về tỷ trọng giữa các ngành kinh tế của địa phương, trong đó nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính.
Trong trồng trọt, xã đã chỉ đạo từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ một cách hợp lý. Công tác chuyển giao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đặc biệt quan tâm. Việc chọn giống, đầu tư phân bón, hướng dẫn kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh… được chính quyền và Ban Khuyến nông xã thường xuyên chăm lo, phối hợp với các ban ngành liên quan ở huyện, ở tỉnh để tạo điều kiện tốt nhất cho bà con nông dân. Xã còn chủ trương củng cố tu bổ các con đập, đảm bảo chủ động tưới tiêu, phát huy hiệu quả. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xã tiến hành xây dựng, bê tông hóa hệ thống kênh mương nội đồng, tạo điều kiện để nâng cao năng suất cây trồng. Thời gian này, thực hiện Chỉ thị 02 của Tỉnh uỷ Nghệ An về việc dồn điền đổi thửa, Hồng Sơn đã tổ chức khoanh vùng đổi ruộng, tạo điều kiện cho bà con nông dân trong việc thâm canh. Đồng ruộng được chuyển đổi từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, hệ thống giao thông, kênh mương thủy lợi được quy hoạch lại. Địa phương còn tích cực đầu tư thâm canh tăng vụ, đưa hệ số lần trồng từ 2 vụ lên 3 vụ để tăng sản lượng trên một đơn vị diện tích. Giống mới được đưa vào trên 100% diện tích gieo trồng của địa phương, chủ yếu là các loại lúa Lai Trung Quốc, Q.ưu 1, ngô lai… cho năng suất cao, chất lượng tốt. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng giảm dần diện tích trồng lúa, tăng diện tích trồng màu như ngô, khoai, sắn và rau các loại, phát triển kinh tế vườn đồi thời tiến hành quy hoạch chuyển sản phẩm nông nghiệp thành hàng hóa để có thu nhập ngày một cao hơn. Toàn xã đã xây dựng được 14 mô hình trang trại sản xuất có hiệu quả. Nhờ những chủ trương và biện pháp trên, trong những năm 2001 – 2005, năng suất, sản lượng cây trồng, nhất là cây lúa không ngừng được nâng lên. Tổng sản lượng lương thực đạt 1494 tấn, tăng so với đầu nhiệm là 161,6 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 430 kg/người/năm tăng so với đầu nhiệm kỳ là 51 kg/người/năm. Diện tích ngô tăng từ 10 ha năm 2000 lên 120 ha năm 2005, diện tích lúa lai từ 66,1 ha lên 140 ha năm 2005.
Chăn nuôi cũng tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, công tác thú y, kỹ thuật nuôi, chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được chú trọng. Việc chăn nuôi theo phương thức nhỏ lẻ, mỗi hộ gia đình chỉ nuôi 1 - 2 con gia súc và hàng chục con gia cầm được chuyển dần sang chăn nuôi có quy mô tương đối lớn. Thông qua các đợt tập huấn và tham quan các mô hình chăn nuôi, trình độ kiến thức của người nông dân được nâng lên. Trước tình trạng bệnh dịch lở mồm long móng ở gia súc và bệnh dịch cúm gia cầm diễn biến phức tạp, Chính quyền đã chủ động phối hợp với ngành thú y của huyện và các ban ngành của xã đề ra các phương án phòng chống tích cực. Do đó hoạt động thú y, phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm ở Hồng Sơn luôn ổn định và đạt hiệu quả tốt. Đàn lợn phát triển theo hướng nạc hoá, đàn bò chuyển dần sang sind hoá. Kết quả năm 2004 tổng đàn trau bò là 1216 con, tăng 200 con so với năm 2000 và vượt chỉ tiêu 16 con, tổng đàn lợn từ 1200 năm 2000 lên 2100 con năm 2004. Bên cạnh đó, Chính quyền còn vận động bà con duy trì nuôi cá ruộng theo thời vụ và sử dụng diện tích ao hồ sẵn có để nuôi thả cá. Vì thế nên sản lượng hàng năm đều tăng, năm 2000 chỉ đạt 4,6 tấn thì đến năm 2004 đạt 10 tấn.
Lâm nghiệp có bước tăng trưởng khá, tăng cường việc khoanh nuôi, trồng rừng và bảo vệ rừng cho 100 ha. Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng cũng được làm tốt, kinh tế đồi rừng ngày càng phát triển. Và trồng mới 29,6 ha nhờ vậy giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng lên.
Bên cạnh phát triển nông - lâm nghiệp, Hồng Sơn còn chủ trương đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Với số người tham gia nghành nghề dịch vụ gần 500 lao động có mức thu nhập 6 triệu đồng/người/năm đã phần nào giải quyết được lao động dư thừa, tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân.
Tổng giá trị sản xuất và thu nhập xã hội hàng năm tăng đáng kể, năm 2000 tổng giá trị sản xuất và thu nhập xã hội từ 5,9 tỷ tăng lên 15,7 tỷ năm 2004, vượt chỉ tiêu đặt ra 200%, tốc độ tăng trưởng hàng năm lên 12,7% vượt 50% chỉ tiêu đặt ra của đại hội.
Về xây dựng cơ bản, trong thời gian này, thực hiện phương châm phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, Nhà nước và nhân dân cùng làm, Hồng Sơn đã tiến hành xây dựng, nâng cấp, tu bổ nhiều công trình phục vụ phát triển kinh tế, xã hội có giá trị lớn. Cụ thể: địa phương đã tiến hành xây dựng mới 6 phòng học ở 3 cấp học, xây dựng mới một cụm trường mầm non, 2 văn phòng trường tiểu học và trung học, tu sửa lại 8 phòng học, cây mới một nhà nội trú cho giáo viên trung học cơ sở, tu sửa lại văn phòng làm việc của xã, xây dựng trạm y tế xã, xây dựng trạm điện số 2 180 KVA, đổ cấp phối 2,5 km đường giao thông, làm 4 km đường bê tông. Tổng số tiền đầu tư xây dựng cơ bản  trong 5 năm là 1,8 tỷ đồng.
Nền kinh tế càng phát triển mạnh theo hướng thị trường, các ngành nghề dịch vụ thương mại càng giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế, nhất là đối với xã có nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng cây lương thực và chăn nuôi như Hồng Sơn. Từ thực tế đó, địa phương đã có những chính sách khuyến khích mở rộng mạng lưới ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, buôn bán, kinh doanh… nhất các hộ ở trên trục đường 15. Các nghề tiểu thủ công nghiệp như sản xuất mộc, cơ khí, gò hàn, sửa chữa xe máy, sửa chữa điện tử, điện dân dụng, chế biến nông sản… phát triển tương đối nhanh. Nhờ vậy, tỷ trọng của ngành dịch vụ thương mại ngày một tăng lên. Bên cạnh đó, từ năm 2000 – 2005, toàn xã có hàng chục người tham gia vào thị trường lao động trong và ngoài nước, chủ yếu là Malaixia, Hàn Quốc, Đài Loan… đưa lại nguồn thu cho người dân mỗi năm hàng tỷ đồng.
Về văn hóa, xã hội: Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa – xã hội cũng luôn luôn được Đảng bộ, Chính quyền quan tâm, chăm lo và tạo điều kiện phát triển tốt. Các hoạt động diễn ra sôi nổi thường xuyên thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Công tác truyền thanh cơ sở được quan tâm và hoạt động có hiệu quả góp phần tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến tận người dân. Các hoạt động thể dục thể thao cũng diễn ra sôi nổi thường xuyên, trở thành phong trào rộng lớn trong toàn xã. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao luôn được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền. Các xóm đều có hội quán, sân bóng đá, bóng chuyền, một số nơi có sân cầu lông, bóng bàn và dụng cụ tập luyện, thi đấu. Các tổ chức, đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, các trường học đều có đội bóng chuyền nam, nữ tổ chức tập luyện và tham gia thi đấu trong các giải do xã tổ chức hoặc giao hữu nhân các ngày lễ lớn. Các phương tiện thông tin liên lạc, nghe nhìn phát triển nhanh, hầu hết các gia đình đều có tivi, đầu video, đài bán dẫn. Được sự chỉ đạo của cấp trên, ngành văn hoá đã tổ chức, hướng dẫn xây dựng quy ước, hương ước trình huyện phê duyệt sau đó tổ chức chỉ đạo toàn dân căn cứ thực hiện tốt, góp phần xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, văn minh trong thôn xóm, trong địa phương, định kỳ có bổ sung sửa đổi để hoàn thiện hơn. 
Việc xây dựng nếp sống văn hoá trong nhân dân luôn được coi trọng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được nhân dân hưởng ứng tích cực và thực sự đi vào chiều sâu. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, cơ quan đơn vị, dòng họ văn hoá diễn ra sôi nổi và thu được kết quả tốt. Các danh hiệu được phát động tổ chức đăng ký ngay từ đầu năm. Trong 5 năm có 2386 lượt gia đình được công nhận là gia đình văn hóa. Việc xây dựng, thực hiện nếp sống văn minh, lịch sự, phát huy những nét đẹp của con người Hồng Sơn được coi trọng. Căn cứ Chỉ thị 19-CT/TU của Tỉnh uỷ và Quyết định 52/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, việc tổ chức đám cưới, đám tang được tiến hành gọn nhẹ, văn minh, tiết kiệm, không gây phiền hà, lãng phí. Có thể nói, Hồng Sơn là một trong số các địa phương thực hiện tốt nếp sống văn minh trong lĩnh vực này. Việc tang ma, giỗ chạp, mừng nhà mới… chủ yếu cũng chỉ tổ chức trong phạm vi gia đình, dòng họ. Đây là việc làm thiết thực có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc xây dựng nếp sống văn hoá và công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương.
Công tác giáo dục đào tạo ngày càng được coi trọng. Đảng uỷ, Chính quyền, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác giáo dục đào tạo, từ đó chăm lo tích cực và có hiệu quả. Mỗi tổ chức đều thực hiện tốt cam kết của mình trong việc chỉ đạo vận động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, môi trường cảnh quan, phối hợp với nhà trường để giáo dục con em ngày càng tiến bộ. Trong những năm 2001 – 2005, Đảng ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học. Nhờ vậy, chất lượng giáo dục không ngừng được nâng lên. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được làm tốt. Chất lượng đại trà của học sinh ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh tiên tiến, học sinh xuất sắc, học sinh giỏi giỏi các cấp luôn tăng lên theo từng năm, tỷ lệ học sinh yếu kém, ngồi nhầm lớp ngày càng giảm. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt bình quân  hàng năm từ 98 - 100%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 95-96%. Mỗi năm có hàng chục em thi đậu vào các trường đại học cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Cả 3 cấp trường là trường Mầm non, trường Tiểu học và trường Trung học đều đạt trường tiên tiến của huyện Đô Lương.
Cùng với giáo dục phổ thông, công tác giáo dục cộng đồng trong thời gian này cũng được quan tâm đúng mức nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cho người lao động để tiếp nhận khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển sản xuất, chăn nuôi. Hàng năm xã đã mở được nhiều lớp học với hàng ngàn lượt học viên tham gia với nhiều nội dung khác nhau như: kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản, sản xuất giống lúa thuần, làm vụ đông, phòng trừ sâu bệnh tổng hợp.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng ngừa dịch bệnh luôn là một trong những vấn để quan tâm hàng đầu của cấp ủy, chính quyền địa phương, bởi vậy, trong những năm 2001 - 2005, địa phương tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ việc khám chữa bệnh cho nhân dân ngày càng đầy đủ, khang trang hơn. Đội ngũ cán bộ y tế từ trạm đến các xóm được bố trí đầy đủ, ngày càng nâng cao năng lực chuyên môn, trách nhiệm phục vụ nhân dân. Các chương trình y tế quốc gia, các chiến dịch tiêm chủng mở rộng, vệ sinh phòng dịch như tiêm phòng viêm gan B, tiêm phòng uốn ván, nước sạch, vệ sinh môi trường, quản lý điều trị các bệnh xã hội, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, quản lý sức khỏe nhân dân được thực hiện đúng quy trình và đạt kết quả tốt. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 41% xuống 21% trong vòng 5 năm. Một số căn bệnh thường gặp như: bại liệt, ho gà, uốn ván, bệnh sởi ở trẻ sơ sinh, sốt xuất huyết, tả, lị, thương hàn… được thanh toán cơ bản. Việc khám và điều trị, công tác hộ sản của trạm y tế đảm bảo quy định và có chất lượng, được nhân dân tín nhiệm, nhờ đó trong thời gian này trên địa bàn xã hầu như không có dịch bệnh đáng kể xẩy ra. Tỷ lệ trẻ tiêm phòng và uống vitamin A hàng năm đạt 98 - 100%. Bình quân mỗi năm Trạm Y tế đã khám và chữa bệnh cho khoảng trên 1000 lượt người. Việc xây dựng xã đạt chuẩn quốc gia về y tế được quan tâm.
Công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình ngày càng được quan tâm. Thời gian này địa phương đã tập trung cao vào việc giáo dục ý thức cho nhân dân trong thực hiện chính sách Dân số - kế hoạch hoá gia đình của Đảng và Nhà nước. Chương trình truyền thông dân số được lồng ghép với các chương trình khác như sức khỏe sinh sản, chống suy dinh dưỡng…, nhờ vậy hạn chế đến mức thấp nhất số người sinh con thứ 3 trở lên. Vì thế tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên trong 5 năm qua ổn định dưới mức 1%.
Công tác chính sách xã hội được quan tâm đúng mức. Các chủ trương, chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đều được phổ biến tận nhân dân và triển khai thực hiện kịp thời, đầy đủ. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn ngày càng thu hút mọi người dân tích cực, tự giác tham gia. Chính sách người có công, thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng người, đúng đối tượng. Thực hiện chủ trương của cấp trên, toàn dân đã tích cực tham gia cuộc vận động ủng hộ người nghèo, xây dựng nhà đại đoàn kết. Phong trào vận động đóng góp vốn xây dựng nhà tình nghĩa, quỹ tình thương, xóa nhà tranh tre dột nát được đông đảo cán bộ, đảng viên cũng như các hộ gia đình hưởng ứng tích cực. Vì thế, 100% hộ nghèo được cấp Bảo hiểm y tế và tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 13% năm 2004. Khoảng cách giữa người giàu với người nghèo được thu hẹp, quan hệ tình làng nghĩa xóm không ngừng được khơi dậy, xiết chặt tình thân ái keo sơn.
Thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh của Đảng về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, Đảng bộ, chính quyền xã Hồng Sơn thường xuyên quan tâm giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đội ngũ những người phụ trách công tác quốc phòng – an ninh; tập trung xây dựng lực lượng, tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ hàng năm; duy trì chế độ báo động, kiểm tra thường xuyên, đảm bảo xây dựng vững chắc cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Kế hoạch huấn luyện, công tác giao quân hàng năm của Hồng Sơn luôn được đánh giá là đơn vị thực hiện tốt, luôn đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Lực lượng an ninh xã thường xuyên quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh quốc gia, Nghị quyết 09 của Chính phủ và hai chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy. Hoạt động của đội ngũ an ninh xóm thường xuyên được củng cố, chất lượng ngày càng được nâng lên. Nhờ vậy, nhiệm vụ quốc phòng của địa phương được đảm bảo, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững.
Công tác xây dựng đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân luôn được coi trọng và làm tốt. Trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ Hồng Sơn luôn lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, đồng thời không ngừng nâng cao đổi mới tư duy về chính trị, coi đó là nhiệm vụ then chốt. Do vậy công tác giáo dục tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên luôn được quan tâm và đặt lên hàng đầu, nhằm tạo niềm tin vững chắc vào việc thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ do Đảng đề ra. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và các Nghị quyết Trung ương ( từ Nghị quyết Trung ương 2 đến Nghị quyết Trung ương 9), Kết luận số 10 của Bộ Chính trị cùng với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Đô Lương khóa XVII và các chỉ thị, nghị quyết khác, Đảng bộ xã Hồng Sơn kịp thời tổ chức các đợt học tập quán triệt đến tận cán bộ, đảng viên và tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. 100% các chi bộ Đảng, các tổ chức đoàn thể, ban ngành tham gia tích cực trong việc học tập các nghị quyết. Số đảng viên tham dự trong các kỳ học tập, quán triệt nghị quyết đạt từ 85 – 95%. Nhìn chung nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đã có chuyển biến tích cực, ngày càng nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua các đề án, chương trình hành động, các nghị quyết của Đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống một cách có hiệu quả, đặc biệt là các chỉ thị, nghị quyết như Chỉ thị 02/CT, 07/CT - TU của Tỉnh ủy Nghệ An, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) - Khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 2, 3, 7 (Khóa IX)… Thông qua các đợt tập huấn, bồi dưỡng, học tập chính trị, trình độ nhận thức, ý thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên. Nhìn chung các tổ chức đảng và đảng viên đã phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Chỉ thị 03/CT-TW, các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy về việc tiếp tục vận động và chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức của Đảng bộ và các chi bộ ngày càng được củng cố vững chắc. Trong công tác tổ chức xây dựng đảng, cấp ủy đã làm tốt việc chỉ đạo, định hướng kiện toàn các tổ chức, đoàn thể phù hợp với khả năng hoạt động của các cá nhân và tổ chức, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong thời kỳ mới.
Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và các chi bộ, Ban Thường vụ Đảng uỷ đã ban hành đề án xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh và triển khai thực hiện tốt. Ngày càng có thêm nhiều chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, xóa hẳn chi bộ yếu kém, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngày một tăng lên, đảng viên vi phạm giảm dần. Cụ thể, năm 2004 có 83 đảng viên loại 1, 36 đảng viên loại 2 và 4 đảng viên loại 3, 6 chi bộ loại 1 và 6 chi bộ loại 2 không có chi bộ loại 3.
Thực hiện Nghị quyết 14/NQ - TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, công tác cán bộ thường xuyên được chú trọng. Cấp ủy luôn chăm lo đến công tác cán bộ, cụ thể hóa quy chế bầu cử trong Đảng, thực hiện quy chế quản lý cán bộ, quy định giám sát đảng viên, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, cơ cấu cán bộ theo Nghị định 09/CP, Nghị định 12/CP, đảm bảo tính kế thừa, không bị hẫng hụt và bị động về cán bộ, đặc biệt là việc chuẩn bị nhân sự cho Hội đồng nhân dân. Trong 5 năm Hồng Sơn đã gửi đi bồi dưỡng và đào tạo cho 23 cán bộ, đảng viên về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Trong đó, có 6 đồng chí đi học trung cấp chính trị, 1 đồng chí đi học Đại học, 1 đồng chí đi học trung cấp kế toán và 6 đồng chí đi học trung cấp pháp lý, 3 đồng chí đi học trung cấp địa chính, 1 đồng chí đi học trung cấp văn hóa, 10 đồng chí đi học sơ cấp chính trị.
Ngoài công tác đào tạo, từ 2001 – 2005, xã còn phối hợp với các cấp tiến hành bồi dưỡng, thực hiện các chương trình tập huấn kiến thức về chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, nâng cao trình độ cho cán bộ ở sơ sở. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ trên các lĩnh vực cũng được tiến hành thường xuyên. Việc bố trí sắp xếp,  đánh giá cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, khách quan, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Bên cạnh đó, cấp ủy luôn coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới. Công tác đánh giá, phân loại đảng viên theo định kỳ 6 tháng, hàng năm được thực hiện nghiêm túc, khách quan có hiệu quả. Từ đó tạo điều kiện cho mỗi đảng viên có ý chí phấn đấu, sửa chữa khuyết điểm và vươn lên. Hàng năm có khoảng 15% số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, số đảng viên vi phạm kỷ luật chỉ chiếm trên dưới 1%. Các chi bộ còn làm tốt việc phân công công tác cho đảng viên, mỗi đảng viên có ý thức rèn luyện, giữ vững vị trí, nêu cao tinh thần trách nhiệm, động viên gia đình, quần chúng nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác kiểm tra cũng được Đảng uỷ tiến hành nghiêm túc theo Điều 30 và 32 - Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua các lần kiểm tra, Đảng uỷ đã phát hiện và xử lý nghiêm các đảng viên vi phạm, góp phần củng cố nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, đồng làm tăng thêm niềm tin trong quần chúng nhân dân. Cụ thể, trong 5 năm đã kiểm tra 18 tập thể chi bộ, 9 chi ủy, 18 đảng viên, nhắc nhở 8 đồng chí, khiển trách 6 đồng chí, cảnh cáo 3 đồng chí, khiển trách 1 chi bộ. Từ đó tạo nên một khối thống nhất từ trên xuống dưới, từ trong Đảng đến quần chúng nhân dân, đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Trong công tác dân vận, Đảng bộ đề ra các chuyên đề về việc phối hợp vận động quần chúng. Công tác kiểm tra sơ kết, tổng kết thường xuyên được chú trọng, từ đó nhận thức của cán bộ, đảng viên về công tác dân vận của Đảng không ngừng được nâng lên. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, vận động quần chúng nhân dân được tăng cường từ xã đến xóm. Đặc biệt, quá trình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy Đảng, của Chính phủ về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gắn với công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của địa phương đã mang lại nhiều kết quả. Do vậy, uy tín của Đảng bộ được nâng lên rõ rệt, củng cố thêm niềm tin trong quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể cũng từng bước đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Sự phối hợp lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội phù  hợp với lợi ích của mỗi đoàn viên, hội viên được thực hiện từng bước có hiệu quả. Ban chấp hành các đoàn thể luôn nhạy bén trong việc áp dụng các cơ chế chính sách của cấp trên, đáp ứng tình hình thực tế của các tổ chức hội, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Từ đó khơi dậy tinh thần chủ động, sáng tạo, vươn lên làm giàu, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ những tập tục lạc hậu, trì trệ, lãng phí, tiến lên xây dựng đời sống mới tại địa phương.
Hoạt động của các tổ chức, đoàn thể thực sự đi vào nề nếp và có chiều sâu. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa VII) về công tác thanh niên trong tình hình mới, Đoàn Thanh niên đã có nhiều hoạt động sôi nổi, thiết thực. Nhiều đoàn viên thanh niên có tinh thần phấn đấu cao trong việc xây dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh, tích cực chăm lo phát triển kinh tế, tự vươn lên làm giàu chính đáng, trở thành tấm gương về lao động sản xuất. Chính lực lượng thanh niên với phẩm chất đạo đức tốt, sống có ước mơ và hoài bão, là đội ngũ trẻ luôn đi đầu trong các phong trào do Đảng ủy, Chính quyền, Mặt trận phát động, góp phần đáng kể trong việc thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của địa phương những năm 2001 – 2005. Hoạt động của Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh cũng từng bước phát huy vai trò và nhiệm vụ của mình trong thời kỳ đổi mới. Với những đóng góp của mình, hàng năm hầu hết các tổ chức đoàn thể đều được cấp trên đánh giá, xếp loại hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Hội đồng nhân dân thể hiện rõ vai trò cơ quan quyền lực địa phương, có đủ trình độ, năng lực đại diện cho các cơ sở, các giai tầng xã hội và đáp ứng mọi nguyện vọng của nhân dân. Ủy ban nhân dân thực hiện tốt vai trò quản lý điều hành, luôn luôn đổi mới lề lối, phong cách làm việc, bám sát nội dung và cụ thể hóa nghị quyết của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân sát đúng với tình hình thực tế địa phương trong từng thời gian; duy trì vai trò cũng như chức năng của nhà nước cơ sở, phát huy tính dân chủ, sáng tạo, nắm bắt kịp thời tình hình và thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Mối quan hệ giữa Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng luôn giữ vững tính đoàn kết, có tính thống nhất cao, đồng thời hoạt động đảm bảo đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ với phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra theo đúng tinh thần Đại hội VI của Đảng. Từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng và hoàn thành mục tiêu, kế hoạch do địa phương đề ra.
Trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu đề ra, thu được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng – an ninh. Bộ mặt quê hương ngày càng đổi mới, giàu đẹp văn minh; đời sống nhân dân  ngày càng ấm no hạnh phúc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Hồng Sơn vẫn còn một số khuyết điểm, hạn chế nhất định. Đó là, trong phát triển kinh tế, việc xây dựng các vùng chuyên canh tiến hành chậm,  các mô hình sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa phát huy cao hiệu quả; công tác quản lý đất đai chưa chặt chẽ, việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất diễn ra còn chậm, công tác thống kê, rà soát quỹ đất cũng như việc lập hồ sơ, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các gia đình còn kéo dài… Lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn còn nhiều tồn tại, bức xúc; chất lượng giáo dục chưa cao; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tăng dân số, vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình vẫn còn cao; chất lượng, tỷ lệ một số danh hiệu văn hoá còn thấp. Công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể có lúc chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nói trên một phần do thời tiết – khí hậu diễn biến phức tạp như hạn hán, rét, lụt lội, dịch bệnh phát sinh; cơ chế thị trường có nhiều biến động; một phần do vai trò lãnh đạo của cấp ủy có lúc chưa toàn diện, thiếu sự chỉ đạo quyết liệt, thiếu mạnh dạn trong các khâu đột phá kinh tế mang tầm chiến lược; tư tưởng bảo thủ, trì trệ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó việc xây dựng Nhà máy xi măng Đô Lương, bên cạnh những thuận lợi còn nẩy sinh nhiều vướng mắc, khó khăn như việc giải phóng mặt bằng chậm, một số diện tích canh tác, hồ đập, đường sá bị bồi lấp, tiến độ xây dựng chậm, thời gian kéo dài, việc xây dựng khu tái định cư chậm… ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, xã hội gây khó khăn cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo làm chi phối, ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ khác… Dù vậy, những thành tựu trong quá trình tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên quê hương là hết sức to lớn, là kết quả của mồ hôi, công sức, vượt lên hoàn cảnh, khắc phục khó khăn, trở ngại và tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, Nhà nước của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Hồng Sơn.
Tháng 7/2005, Đại hội Đảng bộ Hồng Sơn lần thứ 23 nhiệm kỳ 2005 - 2010 được tổ chức trọng thể tại hội trường xã. Đại hội đã đề ra phương hướng chung là “Tiếp tục phát huy nội lực và những lợi thế của địa phương đồng thời tranh thủ hỗ trợ của các ngành, các cấp, đẩy mạnh phát triển kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với phát triển văn hóa xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống nhân dân…”.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Thành được bầu làm Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Hoàng Văn Hải được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Trần Văn Tý được bầu làm Phó Bí thư thường trực Đảng, đồng chí Trần Văn Ngọc làm Phó Chủ tịch xã. Đến tháng 2/2010, đồng chí Hoàng Văn Hải lên làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Văn Thành, đồng chí Trần Văn Tý lên làm Chủ tịch xã thay đồng chí Hoàng Văn Hải, đồng chí Tăng Văn Cường lên làm Trực Đảng kiêm Chủ tịch hội đồng nhân dân xã.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Hồng Sơn nhiệm kì 2005-2010, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tổ chức xây dựng chương trình hành động, thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp. Ban Thường vụ, Ban Chấp hành cũng phân công các ủy viên phụ trách các lĩnh vực tham mưu xây dựng các chuyên đề, đề án, kế hoạch thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Quy định hàng tháng, hàng quý, hàng năm tổ chức kiểm tra đánh giá tiến độ, kết quả thực hiện. Trong năm 2005 – 2006, có nhiều chương trình, đề án đã đuợc xây dựng, phê duyệt, ban hành và triển khai thực hiện nhằm cụ thể hoá và đưa nghị quyết của Đảng sớm đi vào cuộc sống.
Sau khi các chương trình, đề án được ban hành, Ban Chấp hành đã tổ chức quán triệt đến tận cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn thể và tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong toàn thể quần chúng nhân dân để triển khai thực hiện. Đã có nhiều đề án, kế hoạch có tính thực tế, khả thi cao, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện đạt kết quả tốt.
Ban Thường vụ, Ban Chấp hành đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng ủy viên chỉ đạo trên từng mặt, từng lĩnh vực, từng xóm. Nhờ vậy công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, Chính quyền được thể hiện sâu sát, thường xuyên, tình hình thông tin mọi mặt trên địa bàn được nắm bắt, xử lí, chỉ đạo kịp thời. Ban Thường vụ, Ban Chấp hành còn tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc hàng năm và toàn khoá, xây dựng kế hoạch, lịch làm việc hàng tháng và triển khai thực hiện có hiệu quả. Chế độ làm việc, giao ban, hội họp được thực hiện nghiêm túc. Việc tham dự giao ban cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, việc tổ chức giao ban các khối kinh tế, văn hóa, xã hội, các ngành được duy trì nghiêm túc thiết thực, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu quả hoạt động của chính quyền và các tổ chức đoàn thể.
Thời gian này, dưới sự chỉ đạo của UBND huyện, Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện, Hồng Sơn đã phát động nhân dân toàn xã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội... Nhiều phong trào thi đua được phát động và thực hiện tốt như: Phong trào toàn dân ra quân làm thuỷ lợi nhân ngày 16/10 hàng năm; Phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; Phong trào trồng cây gây rừng; Phong trào toàn dân tích cực thi đua phòng cháy, chữa cháy rừng, phòng chống bão lụt; Phong trào phát triển các mô hình kinh tế, xây dựng kinh tế trang trại; Phong trào thi đua lao động sản xuất và kinh doanh giỏi; tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”...
Định kỳ hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tổ chức rà soát, đánh giá thực hiện kế hoạch của năm, các chương trình, đề án, các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, bổ sung các giải pháp, mục tiêu, nhiệm vụ để lãnh đạo chỉ đạo thực hiện đạt kết quả cao hơn. Nhờ vậy trong 5 năm (2006-2010) tình hình kinh tế - xã hội của Hồng Sơn tiếp tục tạo được những chuyển biến đáng kể.
Trong lĩnh vực kinh tế, các ngành nông, lâm, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, xây dựng cơ bản đều có bước phát triển tốt. Sản xuất nông, lâm nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết, giá cả vật tư, phân bón tăng cao, dịch bệnh gia súc, gia cầm bùng phát, đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn tới suy thoái kinh tế trên thế giới vào các năm 2008, 2009 tác động không nhỏ đến tư tưởng và sự đầu tư sản xuất của người nông dân, nhưng nhờ sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí đúng cơ cấu lịch thời vụ, áp dụng giống mới và các tiến bộ KHKT trong nông nghiệp, thực hiện chống úng, chống hạn kịp thời nên năng suất, sản lượng lúa và hoa màu hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Cụ thể, Tổng sản lượng lương thực cây có hạt bình quân hàng năm đạt 1900 tấn/năm, đạt 103% chỉ tiêu của nghị quyết. Bình quân lương thực đạt 540 kg/người/năm, vượt chỉ tiêu 40 kg/người/năm. Các loại cây có thu nhập cao như bí xanh, mướp đắng tăng hàng năm từ 5-7 ha, diện tích lạc 50 ha, đạt năng suất hàng năm là 112,5 tấn.
Trong chăn nuôi, từng bước chuyển từ chăn nuôi theo hình thức tận dụng sang hình thức chăn nuôi bán công nghiệp. Tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển đàn gia súc, gia cầm cả về số lượng lẫn chất luợng. Làm tốt việc phòng trừ dịch bệnh, tiêm phòng cho gia súc, gia cầm hàng năm. Nhờ vậy đàn trâu bò năm 2010 tăng lên 1570 con tăng so với đầu nhiệm kỳ là 354 con. Trong đó có 630 con trâu, 940 con bò (có 655 con bò lại sind). Tổng đàn lợn là 2800 con, đàn dê 350 con, đàn ong mật 150 đàn và gần 4 vạn con gia cầm. Công tác nuôi trồng thuỷ sản đuợc chú ý, trong 5 năm đã khai thác có hiệu quả 34 ha diện tích ao hồ, đầm, đập, đưa sản lượng cá đánh bắt được lên 55 tấn.
Công tác chăm sóc bảo vệ và phòng chống cháy rừng đạt kết quả tốt, hàng năm hầu như không có vụ cháy rừng đáng kể nào xẩy ra. Một số mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp đã mở ra hướng phát triển kinh tế đồi rừng; kinh tế trang trại đã được quan tâm, đầu tư, phát triển.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tiếp tục được khuyến khích phát triển. Các nghề như: gạch ngói, mộc dân dụng, nề, gò hàn, cơ khí, sửa chữa... được mở mang, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Trong đó cho phát triển 2 lò gạch nung ở vùng Vệ Lều và cầu Khách. Các loại hình dịch vụ có chiều hướng tăng mạnh, trong đó dịch vụ vận tải tăng nhanh và ổn định. Khâu làm đất trong sản xuất nông nghiệp từng bước được cơ giới hoá. Đến năm 2010, toàn xã có hàng chục xe vận tải, máy cày, máy tuốt lúa công nghiệp hoạt động, góp phần đẩy nhanh tiến độ sản xuất, thu hoạch, đảm bảo thời vụ và tăng năng suất cây trồng.
Hoạt động thương mại ngày càng sôi động, hàng hoá phong phú, phục vụ tận mọi địa bàn dân cư. Đến năm 2010 toàn xã có hàng chục hộ kinh doanh dịch vụ, buôn bán giải quyết công ăn việc làm cho 250 lao động trong xã.
Nhờ vậy, tổng giá trị sản xuất tăng từ 15,9 tỉ đồng năm 2005, tăng lên 38,12 tỉ đồng năm 2010, đạt 100,0% so với chỉ tiêu Đại hội đề ra. Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 12,5%, bình quân thu nhập đầu người là 10,3 triệu đồng/người/năm, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Về xây dựng cơ bản. Trong 5 năm với việc phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ, thu hút sự đầu tư, hỗ trợ từ bên ngoài, Hồng Sơn đã tiến hành đầu tư xây dựng các công trình như xây mới cầu khe Đình 381 triệu; nâng cấp đập Trường Pheo 800 triệu; xây dựng công sở mới kiên cố 2 tầng 991 triệu; sửa nâng cấp tràn đập Bỉ 250 triệu; nâng cấp tuyến đường Hồng Sơn đi Bồi Sơn 900 triệu; xây dựng mới 6 phòng học và tu sửa các trường học 550 triệu đồng; xây dựng các công trình phụ của trạm y tế 33 triệu; đổ cấp phối đường trong xã 132,8 triệu. Tổng kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản trong nhiệm kỳ 2005-2010 là 4,03 tỷ trong đó vốn của nhà nước là 2,93 tỷ còn lại là ngân sách của địa phương và của nhân dân đóng  góp.
Lĩnh vực văn hoá xã hội đuợc quan tâm chú ý và có bước phát triển tốt. Công tác thông tin, tuyên truyền được duy trì thường xuyên, phổ biến kịp thời các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao được đẩy mạnh, hàng năm xã tổ chức nhiều đêm văn nghệ, nhiều giải thể thao ở các lứa tuổi, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được phát động và hưởng ứng tích cực. Tỉ lệ gia đình đạt văn hoá hàng năm đạt 700%. Đến năm 2010, xã Hồng Sơn có 6 đơn vị đạt khu dân cư tiên tiến, 3 dòng họ đạt dòng họ văn hóa, 3 đơn vị là xóm 4, trường Tiểu học, Trạm Y tế đạt danh hiệu văn hoá. Các hoạt động trên đã góp phần tạo nên không khí tươi vui, lành mạnh, động viên khí thế thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng khối đại đoàn kết, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Công tác giáo dục đào tạo luôn được cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể quan tâm. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, huy động toàn thể cộng đồng chăm lo, đầu tư cho giáo dục. Công tác huy động duy trì sĩ số ngày càng được làm tốt, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở đạt vững chắc. Chất lượng đại trà từng bước được nâng lên, tỉ lệ lên lớp và tốt nghiệp hàng năm ở các cấp đạt 97- 98%. Chất lượng mũi nhọn ngày càng tiến bộ. Đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá, hàng năm đều có giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua các cấp. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể Đảng bộ, nhân dân, của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh, năm 2008 Trường Tiểu học được công nhận danh hiệu trường Chuẩn Quốc gia mức độ 1. Tỷ lệ huy động sỹ số đến lớp hàng năm đạt 100%, không có học sinh bỏ học. Học sinh thi vào trường trung học phổ thông hàng năm đạt 75%, số học sinh tiểu học thi đỗ vào trương Lý Nhật Quang ngày càng tăng. Số học sinh đậu vào các trường Đại học trên cả nước trong nhiệm kỳ đạt 67 em, trong đó năm 2009 có 22 em. Giai đoạn này, trường Phổ thông cở sở của xã giải thể, con em của xã phải đi học ở xã Bài Sơn, Giang Sơn và Tràng Sơn. Đặc biệt vào năm 2007, một người con của quê hương Hồng Sơn là Nguyễn Tất Nghĩa đã đạt Huy chương Vàng (HCV) Olympic Vật lý Quốc tế và lọt vào tốp 10 học sinh giỏi Vật lý nhất thế giới. Đến năm 2010, em Vũ Đình Long một người con khác của quê hương Hồng sơn lại một lần nữa đưa vinh quang về cho đất nước đó là đạt Huy chương Bạc môn Toán Quốc tế.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân từng bước được chú trọng. Các chương trình quốc gia về y tế được thực hiện có hiệu quả. Trạm Y tế bình quân khám và điều trị cho 1.100- 1.200 lượt người/năm, chất lượng ngày càng được nâng lên. Cơ sở vật chất đầu tư cho công tác khám chữa bệnh từng bước đạt yêu cầu. Công tác phòng dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm được đảm bảo. Trong 5 năm trên địa bàn không có dịch bệnh lớn xảy ra, môi trường cơ bản trong sạch, lành mạnh. Năm 2006, xã Hồng Sơn được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác chăm sóc giáo dục trẻ em được quan tâm. Từng bước giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình được coi trọng và chỉ đạo tích cực, đã vận động nhân dân ký cam kết thực hiện được 97%. Tỉ lệ phát triển dân số  đến năm 2010 còn 0,2%.
Công tác chính sách xã hội được thực hiện tốt. Công tác đền ơn đáp nghĩa, các cuộc vận động quyên góp ủng hộ quỹ vì người nghèo, trẻ em mồ côi, tàn tật, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân bị chất độc da cam, xóa nhà tranh tre dột nát được chú trọng. Các chế độ chính sách người có công với cách mạng, người nghèo được thực hiện đầy đủ. Mỗi năm toàn xã đã đóng góp quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, nạn nhân chất độc da cam từ 30-40 triệu đồng. Cho hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất, chăn nuôi hàng trăm triệu đồng. Hàng năm xã trích ngân sách hỗ trợ xây dựng 4 nhà tình nghĩa, sửa 2 nhà và làm mới 4 nhà đại đoàn kết. Ngoài ra, còn tặng 55 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 11 triệu cho các gia đình chính sách.
Nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương đuợc triển khai đồng bộ, từng bước đi vào nề nếp, thường xuyên duy trì và thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ trực và sẵn sàng chiến đấu, tham dự giao ban an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu một cách đều đặn và nghiêm túc. Hàng năm xã đã thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho cán bộ, lực lượng dân quân tự vệ theo chương trình quy định, công tác đăng kí, tuyển gọi thanh niên nhập ngũ luôn hoàn thành chỉ tiêu trên giao. Cụ thể, đã có 478 lượt thanh niên tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự và giao cho các đơn vị là 36 đồng chí đi làm nghĩa vụ đạt 100% chỉ tiêu của nghị quyết đề ra. Hồng Sơn cũng luôn làm tốt việc đón thanh niên hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương và thực hiện tốt các chính sách hậu phương - quân đội.
Công tác an ninh trật tự thường xuyên được coi trọng, kịp thời giải quyết các vụ việc xảy ra trên địa bàn. Tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ning tổ quốc. Phối hợp với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tổ chức cho nhân dân bỏ phiếu tố giác tội phạm. Chủ động làm tốt công tác nắm tình hình, giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết 08 - TW về chiến lược an ninh quốc gia, Nghị quyết 09/CP về chương trình phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội, Đề án “2 yên 3 giảm”, Nghị quyết 32/CP của Chính phủ về kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông…
Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư luôn được tập trung chỉ đạo, kịp thời giải quyết các kiến nghị, đề xuất chính đáng của nhân dân. Trong 5 năm xã đã tiếp nhận 57 vụ việc, trong đó 55 vụ việc được xử lý tại xã còn 2 vụ việc chuyển lên cấp trên giải quyết. Các đơn kiến nghị, đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, phân loại, xử lí kịp thời, thỏa đáng. Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, công tác dân chủ cơ sở đuợc quan tâm, công khai kịp thời quyết toán thu chi ngân sách hàng năm, quyết toán công trình xây dựng cơ bản, các chính sách xã hội được tổ chức tốt, cấp phát chế độ tận các đối tượng đầy đủ kịp thời.
Công tác xây dựng đảng luôn luôn được coi trọng. Việc giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên thường xuyên được đặt lên hàng đầu, từng bước nâng cao chất lượng học tập, quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từ năm 2007, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 06 ngày 7/11/2006, của Bộ Chính trị được quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sau 3 năm thực hiện, Cuộc vận động đã được sự hưởng ứng tích cực, sôi nổi của toàn xã hội, góp phần tạo sự chuyển biến về đạo đức, phẩm chất, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển quê hương. Công tác tư tưởng còn góp phần làm rõ thực trạng bảo thủ trì trệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước tạo được sự thống nhất nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên. Năng lực vận dụng các chỉ thị, nghị quyết thể hiện ngày càng tốt hơn. Duy trì tốt ngày sinh hoạt tư tưỏng hàng tháng, kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác tổ chức cán bộ được chú ý, làm tốt. Việc quy hoạch đội ngũ cán bộ được tiến hành dân chủ, công khai. Kịp thời củng cố, kiện toàn bộ máy khi có biến động về nhân sự, bổ sung sửa đổi và tổ chức thực hiện có hiệu quả quy chế làm việc. Duy trì chế độ sinh hoạt, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết ngày một tốt hơn. Bộ máy lãnh đạo cấp xã và cơ sở xóm hàng năm được tập huấn bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ đầy đủ, trong 5 năm đã bồi dưỡng cho hàng trăm lượt người. Cụ thể, gửi đi học sơ cấp chính trị 17 đồng chí, 9 đồng chí đi học trung cấp chính trị, 17 đồng chí đi học trung cấp chuyên môn, 86 đồng chí đi học lớp cảm tình Đảng, bồi dưỡng đảng viên mới cho 34 đồng chí. Nhìn chung chất lượng quy hoạch đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ được nâng lên, hoạt động của tổ chức Đảng có nhiều tiến bộ. Đội ngũ cán bộ cấp uỷ, các ngành trong 5 năm được cử đi đào tạo hàng chục đồng chí.
Công tác phát triển đảng được chú ý làm tốt, trong 5 năm Đảng bộ đã kết nạp được 43 đồng chí đảng viên mới, đạt 122,8% so với chỉ tiêu, chuyển đảng chính thức cho 36 đồng chí, xét đề nghị cấp trên tặng huy hiệu Đảng kịp thời cho các đảng viên 30, 40, 50, 55, 60, 65  năm tuổi Đảng là 96 đồng chí, cấp thẻ Đảng cho 150 đồng chí.
Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng và đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng được tiến hành chặt chẽ, đã chủ động bám sát chức năng, tổ chức thực hiện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Hàng năm cấp uỷ, Uỷ ban kiểm tra đã xây dựng chương trình công tác, xác định nội dung, phương hướng, đối tượng, thời gian cho từng cuộc kiểm tra và đã tiến hành tổ chức được 35 cuộc kiểm tra, 16 cuộc giám sát, kiến nghị, xem xét, xử lý xóa tên 2 đảng viên trong Đảng bộ. Chính vì vậy nên từ năm 2005 đến 2008 Đảng bộ đạt Đảng bộ Khá, còn năm 2009 đạt Đảng bộ Trong sạch vững mạnh.
    Công tác dân vận từng bước được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, hướng về cơ sở xóm, tạo được nhiều phong trào, hành động sôi nổi trong quần chúng nhân dân như công tác xoá đói, giảm nghèo, giúp nhau phát triển kinh tế, thực hiện tốt Nghị quyết của 11 Tỉnh uỷ “Về công tác vận động quần chúng nhân dân trong tình hình mới”, tích cực tham gia Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, các việc làm tương thân, tương ái, nhân đạo từ thiện. Việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở ngày càng tốt hơn, tạo được sự tin cậy trong nhân dân, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội.
     Hội đồng nhân dân xã từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, các kỳ họp được tổ chức kịp thời, đúng luật định, ban hành được các nghị quyết phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Chất lượng hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân xã đã được nâng lên qua các kỳ tiếp xúc cử tri. Công tác giám sát và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri phản ánh qua các kỳ họp được làm tốt, giúp cho chính quyền giải quyết những vấn đề cử tri quan tâm trong quá trình chỉ đạo điều hành.
Uỷ ban nhân dân xã từng bước thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, thực hiện phân công trách nhiệm, khắc phục tình trạng bị động, lúng túng trong chỉ đạo điều hành, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cấp trên, của Cấp uỷ, Hội đồng nhân dân đã được Uỷ ban nhân dân cụ thể hoá và tổ chức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả trong đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, huy động tối đa nội lực. Công tác cải cách hành chính, trung tâm giao dịch một cửa tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cho công dân kịp thời. Thực hiện Pháp lệnh dân chủ, công khai, minh bạch các khoản thu, chi ngân sách, công tác chính sách xã hội để nhân dân giám sát, từng bước có nhiều chuyển biến trên các lĩnh vực hoạt động. Trong nhiệm kỳ qua, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã thường xuyên được cấp trên xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được duy trì tốt. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động của đoàn thể mình và xây dựng chương trình phối hợp thống nhất hành động, đổi mới nội dung sinh hoạt, phương thức hoạt động, tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên thi đua sản xuất phát triển kinh tế, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào do cấp trên phát động nhất là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, phong trào giúp nhau làm kinh tế, xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ gia đình gặp rủi ro, hoạn nạn, công tác tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tham mưu góp ý vào các chủ trương, tổ chức thực hiện nghị quyết và giám sát cán bộ, đảng viên, đại biểu Hội đồng nhân dân, phối hợp thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ cơ sở, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia và chăm lo quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên. Trong 5 năm Mặt trận tổ quốc xã Hồng Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, các đoàn thể hầu hết được cấp trên xếp loại xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nhìn lại 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hồng Sơn đã đạt được bước tiến nhanh và đồng đều trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Kết quả đó là sự nỗ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn trong việc phát huy sức mạnh đoàn kết, tận dụng thời cơ, khai thác đúng tiềm năng, vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các khóa từ Nhiệm kỳ 1986 – 1988 đến Nhiệm kỳ 2005 – 2010, tạo được sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; đưa nghị quyết của Đảng đến với cuộc sống, thể hiện ở một số chương trình hành động cụ thể. Hồng Sơn đã tạo được những tiến bộ vượt bậc, toàn diện. Cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao và có tích lũy, từ chỗ một xã miền núi thuần nông tự cung tự cấp đã trở thành một địa phương có yếu tố sản xuất hàng hóa, dịch vụ phát triển. Cán bộ đảng viên được tôi luyện thử thách qua các giai đoạn luôn vững vàng, tiếp tục phát huy trí tuệ phẩm chất năng lực của mình góp phần xây dựng quê hương. Hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh, đoàn kết thống nhất, thực hành tốt quy chế dân chủ cơ sở “Dân biết dân bàn, dân làm dân kiểm tra”. Công tác Đảng, công tác cán bộ được Hồng Sơn đưa lên hàng đầu xem đó là nhiệm vụ trung tâm. Vì thế, chăm lo bồi dưỡng phẩm chất, năng lực và quản lý đội ngũ cán bộ đương chức, quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận, từng bước trẻ hóa, chuyên môn hóa một cách bài bản và đồng bộ, bảo đảm cán bộ có đức, có tài, lập trường kiên định vững vàng đưa phong trào của xã đi lên là những việc làm xuyên suốt của Đảng bộ Hồng Sơn trong những năm qua. Đội ngũ bí thư chi bộ, xóm trưởng đều được bồi dưỡng về công tác Đảng, học tập lý luận chính trị sơ cấp, kiến thức quản lý hành chính nhà nước nên công tác vận động quần chúng ở xóm, khối và các đoàn thể luôn duy trì tốt, thống nhất theo quy chế phối hợp trên dưới, Đảng, chính quyền, đoàn thể tạo nên bầu không khí dân chủ, cởi mở, tin tưởng để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được Hồng Sơn vẫn còn một số tồn tại, khuyết điểm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa nhanh và vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi còn chậm, chưa có khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa thật tích cực và có hiệu quả, phát triển chăn nuôi chưa mạnh, tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ còn thấp, thực hiện các đề án hiệu quả chưa cao. Hệ thống giao thông, thủy lợi, điện… có nơi xuống cấp chưa đủ nguồn lực để nâng cấp, sửa chữa. Chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có điểm còn hạn chế. Tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên hàng năm còn cao. Công tác giáo dục đào tạo vẫn còn một số vấn đề bất cập, chất lượng đại trà tăng chậm, chất lượng đội ngũ học sinh giỏi chưa cao, cơ sở vật chất chưa thật sự đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Công tác chính sách xã hội có lúc thực hiện chưa tốt, còn có hiện tượng vi phạm quy định. Một số mâu thuẫn, vướng mắc trong nhân dân giải quyết chậm, hiện tượng gây rối, tệ nạn cờ bạc, trộm cắp, tai nạn giao thông có chiều hướng gia tăng. Việc giải quyết đơn thư chậm, còn để vượt cấp. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các tổ chức, đoàn thể  nhiều lúc chưa nhịp nhàng, đồng bộ và có hiệu quả; một số chủ trương, nghị quyết của Đảng các cấp chậm đi vào cuộc sống.
Nguyên nhân của những hạn chế nói trên một phần do diễn biến cơ chế thị trường có nhiều biến động; phần do vai trò lãnh đạo của cấp ủy có lúc chưa toàn diện, thiếu sự chỉ đạo quyết liệt, thiếu mạnh dạn trong các khâu đột phá kinh tế mang tầm chiến lược. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có lúc chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đảm bảo an ninh quốc phòng nhiều khi còn thiếu giải pháp đồng bộ. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đôi lúc chưa có phương pháp phù hợp, nhuần nhuyễn. Đó là thực tế, là những điều trăn trở mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hồng Sơn đang nỗ lực tìm mọi cách vượt qua. Tin tưởng rằng, trong những giai đoạn tiếp theo, với sức mạnh của một tập thể đoàn kết, luôn phát huy ý chí cách mạng để cùng hướng tới mục tiêu cao đẹp: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Hồng Sơn sẽ vượt lên hoàn cảnh, khắc phục những trở ngại bằng chính nội lực của mình để tiến nhanh, tiến kịp với các địa phương khác trên con đường hội nhập và phát triển bền vững.
Tháng 7 năm 2010, Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn lần thứ 24 nhiệm kỳ 2010 – 2015, được tổ chức tại hội trường xã. Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ đảng viên và nhân dân nêu cao tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, tranh thủ thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn thử thách, quyết tâm xây dựng quê hương Hồng Sơn ngày càng giàu đẹp, văn minh. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, đồng chí Nguyễn Cảnh Minh được bầu làm Bí thư; đồng chí Trần Văn Ngọc được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Tăng Văn Cường được bầu làm Ủy viên Thường vụ trực Đảng kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Lê Đức Tiến được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Đến tháng 6 năm 2012, thực hiện chủ trương luân chuyển và đào tạo cán bộ, đồng thời hỗ trợ và tăng cường cán bộ địa phương nên đồng chí Nguyễn Hồng Xuân, Ủy viên Ban Chấp hành Huyện Đảng bộ được cử về làm Bí thư Đảng ủy xã, đông chí Nguyễn Cảnh Minh làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, và đồng chí Trần Hoàng Anh được cử về làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Trần Văn Ngọc làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Tăng Văn Cường làm Phó Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Lê Đức Tiến làm Phó Chủ tịch xã.
   Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Hồng Sơn nhiệm kỳ 2010 - 2015 và nghị quyết đại hội Đảng các cấp, trong 3 năm qua (2010-2013) nhân dân Hồng Sơn tiếp tục ra quân sôi nổi trên các mặt trận và giành được nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc phòng, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Về kinh tế: Cấp ủy đã lãnh đạo chính quyền tập trung xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, đề án phát triển kinh tế cơ bản hoàn thành và vượt các chỉ tiêu đã đề ra. Tốc độ tăng trưởng: 10,1%. Tổng giá trị sản xuất năm 2013, đạt 101,80 tỷ đồng đạt 100,24% so với kế hoạch. Trong đó: Giá trị sản xuất Nông - Lâm - Thuỷ sản đạt 42,2 tỷ đồng đạt 100,09%; Công nghiệp – XDCB đạt 28,6 tỷ đồng đạt 100,35%; Thương mại - DV đạt 31 tỷ đồng đạt 100,32% kế hoạch. Tổng giá trị gia tăng: 62,14 triệu đồng bằng 100,23% so với kế hoạch. Thu nhập bình quân đầu người đạt: 17,02triệu đồng/ người /năm.
Trong sản xuất nông nghiệp, tổng diện tích canh tác lúa là 275 ha, năng suất đạt 61tạ/ha, tổng sản lượng đạt 1.677 tấn. Tổng sản lượng cây có hạt đạt 2068 tấn. Diện tích trồng cây lạc là 50 ha, năng suất đạt 11 tạ/ha, sản lượng đạt 55 tấn. Diện tích Ngô là 170 ha, năng suất đạt 23 tạ/ha, sản lượng đạt 391 tấn. Trong lĩnh vực chăn nuôi, đàn trâu, bò, lợn cũng như gia cầm tăng trưởng mạnh. Tổng đàn trâu bò là 1.180 con, tăng 40 con so với cùng kỳ năm 2012. Tổng đàn lợn 800 con. Tổng đàn gia cầm là 64.000 con, đàn dê: 350 con, đàn ong mật: 81 đàn. Chính quyền xã đã chỉ đạo quyết liệt công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, không để xảy ra dịch bệnh.
Về nuôi thủy sản, phối hợp thực hiện dự án WB3 với 25 ha. Diện tích nuôi thuỷ sản đạt 34 ha, tổng sản lượng cá và các loại hải sản khoanh nuôi và đánh bắt tự nhiên ước đạt 15 tấn.
Về lĩnh vực Thương mại, dịch vụ- Xây dựng. Xã chỉ đạo tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình xây dựng cơ bản. Tiến hành xây dựng nhà ăn bán trú trường Mầm non và tu sửa một số hạng mục công trình nhằm đảm bảo cơ sở vất chất cho việc xây dựng trường chuẩn Quốc gia với vốn nhà nước và huy động đóng góp của nhân dân theo dự toán 1,3 tỷ  đồng. Lát gạch bờ lốc sân trường và làm lại cổng trường Tiểu học với vốn nhân nhân đóng góp 230 triệu đồng. Hoàn thành xây dựng trung tâm giao dịch một cửa và khuôn viên trụ sở với tồng kinh phí do cấp Huyện hỗ trợ theo dự toán 1,3 tỷ đồng
 Huy động sức dân làm đường giao thông nông thôn và giao thông nội đồng, nạo vét kênh mương, phát quang đường làng ngõ được 4.294 ngày công; nạo vét kênh mương 1.222 m; đắp tu bổ đường, mương, hồ đập 1.549 m3; đắp đường nội đồng: 25.181  m2. Vận động nhân dân hiến đất làm đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng: 9.000 m2, ủng hộ tiền mặt được 201.890.000 đồng.
Về công tác tài chính - ngân sách. Xã đã tăng cường công tác thu ngân sách, đảm bảo chi đúng luật ngân sách, thực hiện tốt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện tốt quy định công khai minh bạch trong thu, chi ngân sách. Tính đến 30/10/2013 về kết quả thu: 3.364.128.000đ/ 3.968.600.000đ đạt 84,7% kế hoạch, ước cả năm 3.968.600.000đ /3.968.600.000đ đạt 100% kế hoạch; chi 3.020.199.800đ /3.968.600.000đ đạt 76,1% kế hoạch, ước cả năm 3.968.600.000đ /3.968.600.000đ đạt 100% kế hoạch. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 570 triệu/550 triệu đạt 104% so với kế hoạch.   
  Về quản lý đất đai,  tài nguyên khoáng sản và môi trường. Xã Hồng Sơn đã tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác lập hồ sơ cấp mới, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trình cấp có thẩm quyền đúng quy định của pháp luật đã rà soát và hoàn chỉnh hồ sơ nộp bổ sung lên văn phòng đăng ký huyện 183 hồ sơ cấp đổi, 17 hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức trên địa bàn. Xét duyệt 281 hồ sơ các loại. Nhận 106 giấy chứng nhận, phát 169 giấy chứng nhận cho dân. Đang triển khai đề án dồn điền đổi thửa theo chỉ thị 08 của BTV Tỉnh uỷ làm điểm tại đơn vị xóm 6. Tổ chức đấu giá đất ở 29 lô đất tổng giá trị khoảng: 1,5 tỷ đồng. Tổ chức kiểm tra tình trạng khai thác đá xây dựng trái phép của các cá nhân, tổ chức. Phối hợp công an huyện bắt 4 vụ khai thác đá trái phép. Chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường đến tận các xóm, đã triển khai việc thu gom và xử lý rác thải trên địa bàn xã, ký hợp đồng 5 vệ sinh viên đối với xóm 1; 2; 4; 8; 9.   
Về văn hoá, xã hội. Thực hiện tuyên truyền và tổ chức các hoạt động chào mừng, kỷ niệm các ngày lễ lớn bằng các hoạt động thiết thực và diễn ra sôi nổi như tổ chức các hội thi văn nghệ, thể thao mừng đảng mừng xuân và các ngày lễ lớn trong năm. Đặc biệt tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao cấp xã lần thứ 7 và các hoạt động trực quan như vẽ cụm cổ động, khẩu hiệu băng qua đường 86 câu. Tham gia thi tiếng hát Làng Sen. Công tác phát thanh đã phần nào truyền tải được thông tin phục vụ nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân. Đồng thời tuyên truyền người dân thực hiện tốt các chủ trường đường lối của Đảng và nhà nước. Lãnh đạo bình xét gia đình văn hoá năm 2013 kết quả  623 /928 hộ đạt 67,1%.
Bên cạnh đó, công tác chăm lo đối với các gia đình chính sách, người già, trẻ em tiếp tục được quan tâm. Đã kịp thời lập danh sách đề xuất nhà nước cấp trên về chính sách cứu tế và hỗ trợ đối với các hộ nghèo trị giá 61.270.000 đồng. Cấp 7.400 kg gạo và 13.700 000 đồng hỗ trợ tết cho người nghèo. Duyệt điều dưỡng năm 2013: 45 đối tượng, trợ cấp bão trợ xã hội 9 trường hợp. Công tác xoá đói giảm nghèo tiếp tục được đẩy mạnh, thực hiện đồng bộ và lồng ghép có hiệu quả các chương trình vốn vay của ngân hàng CSXH, tạo thêm việc làm mới, có thu nhập ổn định, đời sống của nhân dân ngày được nâng cao. Số hộ nghèo 137/928 hộ chiếm tỷ lệ 14%, hộ cận nghèo: 233/928 hộ chiếm tỷ lệ 25%. Xác định cho 95 đối tượng người khuyết tật. Làm tốt công tác chăm sóc trẻ em đã cấp 70 thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi. Đề nghị lên cấp trên xét duyệt trợ cấp bảo trợ XH 2 cháu trẻ tàn tật, giới thiệu 15 cháu khuyết tật đi khám sàng lọc ở huyện. Thăm tặng quà cho 6 đối tượng trẻ gặp hoàn cảnh khó khăn. Trong năm đã có khoảng 32 lao động đi xuất khẩu các nước.
Công tác Giáo dục đào tạo được các cấp ủy Đảng chú trọng. Trong 3 năm qua, Hồng Sơn liên tục đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, thực hiện tốt công tác điều tra hồ sơ phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS vững chắc. Các cấp, các ngành phối hợp tổ chức tốt ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường và khai giảng năm học mới, tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày 20/11. Tổng số học sinh: 706 em trong đó, Mầm non là 181 em, Tiểu học là 206 em, THCS là 167 em, THPT là 152 em. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên. Học sinh giỏi tỉnh có 4 em.  Học sinh giỏi toàn diện có 55 em, sinh viên đậu vào các trường đại học là 16 em. Học sinh tiên tiến là 177 em . Hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng được ổn định, trong năm đã mở được 43 lớp, với 3.476 lượt người tham gia. Đặc biệt vào năm 2011 xã có hai em là Nguyễn Tất Nghĩa và Vũ Duy Long đạt huy chương vàng
Về Y tế, Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Từng bước nâng cao chất lượng khám và điều trị, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh, phòng chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm nên  không có dịch bệnh xẩy ra trên địa bàn xã. Tổng số lần khám và điều trị tại trạm là 3519 lượt, cấp phát thuốc là 2100 lượt người. Tăng cường chiến dịch truyền thông, vận động, lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ năm 2013. Tổng số lần sinh đến 30/10/2013 là 66 trường hợp, trong đó vi phạm chính sách dân số là 13 trường hợp, chiếm tỷ lệ 19%, tỷ lệ phát triển dân số 1,82%.  Xử lý: 11/13 trường hợp vi phạm, số tiền thu được: 19.600.000đ.
Về công tác quốc phòng, an ninh và nội chính. Công tác Quốc phòng - Quân sự địa phương tiếp tục ổn định và giữ vững, xây dựng các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh,  xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh  cho lực lượng dân quân kết quả 96% đạt yêu cầu, đồng thời tổ chức tốt việc đăng ký độ tuổi 17: 35 đ/c. Phối hợp với E 206 rà soát QDB hạng 1 để bàn giao cho đơn vị huấn luyện: 04 đ/c. Hoàn thành công tác tuyển quân đạt 100% chỉ tiêu được giao (5/5 đ/c), đảm bảo về số lượng, chất lượng tuyển quân. Thường xuyên quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, thực hiện tốt chế độ theo NĐ 142. Thực hiện NĐ 62 về chế độ chính sách cho các đối tượng nhập ngũ sau 30/4/1975 tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế; có giấy tờ liên quan: 18 đối tượng; không có giấy tờ: 13 đối tượng.
Nhờ làm tốt công tác nắm và xử lý thông tin nên tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã tiếp tục được duy trì ổn định. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh các loại tội phạm . Triển khai đợt cao điểm tấn công truy quét tội phạm và tệ nạn xã hội đảm bảo an ninh trật tự trước, trong, sau tết Nguyên Đán Quý Tỵ. Tiến hành điều tra làm rõ 16 vụ 27 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính: 4.780.000đ, ban công an lập hồ sơ chuyển CA huyện 9 vụ gồm 20 đối tượng. Tăng cường tuần tra kiểm soát trật tự an toàn giao thông, hành lang ATGT đảm bảo trật tự công cộng.
Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo được quan tâm, duy trì tốt lịch tiếp công dân định kỳ vào sáng thứ 3 thứ 6 hàng tuần. Nhìn chung, công tác tiếp dân và giải quyết các đơn thư phản ánh, khiếu nại được thực hiện kịp thời, đúng luật; đã giải quyết cơ bản những vấn đề mà người dân quan tâm, không để  xảy ra tình trạng bức xúc, gây điểm nóng khiếu kiện đông người và hạn chế tình trạng khiếu kiện vượt cấp. Số đơn thư trong năm là 22 đơn, đã giải quyết: 22 đơn.
Bên cạnh đó, xã đã tăng cường công tác cải cách hành chính, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động trung tâm giao dịch “một cửa”, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi đến giao dịch; giải quyết các hồ sơ, thủ tục gọn gàng, không gây phiền hà cho nhân dân. Cơ bản được nhân dân đồng tình cao khi đến giao dịch.
  Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đã tổ chức tuyên truyền phổ biến các Bộ luật do Quốc hội thông qua: Luật bình đăng giới, Luật khiếu nại tố cáo, Luật nghĩa vụ quân sự, Luất đất đai… Và các cơ chế chính sách phát triển kinh tế của địa phương trên thông tin đại chúng. Làm tốt công tác khai sinh hộ tịch, chứng thực đúng quy định của Pháp luật. Tổng số vụ hòa giải thành: 5/5 vụ. Tổng số hồ sơ có điều kiện thi hành án: 12 hồ sơ, đã giải quyết: 10 hồ sơ, còn 2 hồ sơ đang giải quyết.
Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong 3 năm qua, thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, Ban thường vụ Đảng ủy luôn quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng; công tác phổ biến, quán triệt cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Pháp luật Nhà nước, các phong trào của địa phương, lắng nghe tâm tư nguyên vọng của nhân dân đi đến nơi những điểm mà nhân dân bức xúc để giải quyết dứt điểm, kịp thời, đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, làm ổn định tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tổ chức tốt ngày tư tưởng hàng tháng cho đội ngũ cán bộ Đảng viên, đối thoại trực tiếp nắm bắt thông tin 2 chiều kịp thời để giải quyết, kết quả tổ chức được 10 cuộc, có 1.218 lượt người tham gia, Tổ chức quán triệt, triển khai những chuẩn mực đạo đức Hồ chí Minh gắn với nội dung thực hiện NQTW4 khóa XI của Đảng, Thực hiện việc quán triệt các nghị quyết TƯ 6,TW7 đảm bảo thời gian, nội dung và chất lượng. Hiện nay tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân tương đối đồng thuận cao, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhân dân tích cực hăng hái tham gia đóng góp nhiều vật lực cho xây dựng nông thôn mới.
Công tác giữ gìn đoàn kết nội bộ, giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, công tác phát hiện, ngăn ngừa, đấu tranh với những biểu hiện nói, viết, làm trái quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước luôn được chú trọng và thường xuyên triển khai tại các kỳ sinh hoạt chi bộ, BCH Đảng bộ; đã tác động tích cực đến tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ gìn sự thống nhất ý chí, hành  động và sự đoàn kết trong Đảng. Ngày 26/9/2013, trong hội nghị BTV thường kỳ họp đồng chí Bí thư Đảng ủy phê bình trong BTV cần giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn. Ngày 03/10/2013, Đảng ủy đã ra công văn số 84 v/v đề nghị các tổ chức, chi bộ kiểm điểm một số đồng chí cán bộ, Đảng viên chấp hành không nghiêm thời gian tại hội nghị giao ban tư tưởng tháng 10/2013.
Bên cạnh đó, Đảng ủy, Chi ủy chi bộ luôn nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của Đảng viên  luôn duy trì tốt việc thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, thực hiện nghiêm túc thời gian làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, thảo luận và quyết định tập thể phân công cá nhân phụ trách. BTV Đảng uỷ có trách nhiệm thông tin kịp thời cho các đảng uỷ viên và đội ngũ cán bộ về tình hình công tác của Đảng bộ, thông tin thời sự trong nước và quốc tế vào các kỳ giao ban tư tưởng, quán triệt các văn bản, tài liệu của cấp trên, của Đảng uỷ, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên tiếp thu các thông tin và tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương có hiệu quả. Lãnh đạo đội ngũ cán bộ công chức từng bước, nâng cao chất lượng việc làm, có thái độ cầu thị, trách nhiệm cao với nhân dân; thông qua cử tri phản ánh một số cán bộ công chức có thái độ không tốt khi tiếp xúc với nhân dân Ban thường vụ đảng ủy đã gặp gỡ trao đổi và chỉ đạo tổ chức kiểm điểm và uốn nắn nhờ vậy đã dần đáp ứng được niềm tin của cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân. Công tác chính sách các bộ luôn được chú trọng và giải quyết kịp thời, chi trả các chế độ theo quy định của pháp luật, việc lập hồ sơ cấp, đổi thẻ Đảng viên thực hiện đúng quy trình và kịp thời, hiện nay còn 4 đồng chí đang làm thủ tục đổi và cấp lại thẻ Đảng viên. Tổ chức xét và làm hồ sơ đề nghị truy tặng Huy hiệu 55 tuổi Đảng cho 2 đồng chí; 40 năm tuổi Đảng cho 1 đồng chí; Tặng Huy hiệu 65 tuổi Đảng cho 2 đồng chí; 50 tuổi Đảng cho 4 đồng chí; 40 năm cho 3 đồng chí. Trong các hội nghị sinh hoạt đều thực hiện đúng quy chế, đúng giờ giấc, có biểu dương, phê bình cụ thể. Các chủ trương đều được triển khai bài bản dân chủ công khai. 
Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng và Đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của cấp ủy, cấp trên. Đã chủ động xây dựng và triển khai thực hiện chương trình công tác kiểm tra giám sát năm 2013, Cấp ủy đã kiểm tra 6 tổ chức, chi bộ; Giám sát thường xuyên và chuyên đề 4 tổ chức, chi bộ; Kiểm tra 2 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, chỉ đạo Cấp ủy viên giáp sát thường xuyên tại 9 chi bộ nông thôn. UBKT Đảng ủy tổ chức kiểm tra 3 tổ chức, giám sát thường xuyên 2 tổ chức, kiểm tra 1 tổ chức có dấu hiệu vi phạm. Làm tốt công tác đoàn kết nội bộ, giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, thống nhất ý chí và hành động với quan điểm tập thể lãnh đạo, điều hành, cá nhân phụ trách và thực hiện, từ đó đã đẩy lùi được tư tưởng quan liêu, bảo thủ và các dấu hiệu tiêu cực khác.
Việc tổ chức cho cán bộ Đảng viên nghiên cứu, học tập quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị, các văn bản của trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngày 1/1/2013 Đảng ủy  đã ban hành những chuẩn mực học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn thực hiện NQTW4; đã in ấn gửi cho các tổ chức, chi bộ và niêm yết ở 3 địa điểm thường xuyên tiếp xúc và hội họp tại Công sở.
Ngày 16 tháng 04 năm 2013 Đảng ủy tổ chức hội nghị giao ban tư tưởng gắn với quán triệt chuyên đề "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp" kết quả có 105đ/c tham gia học tập; Đạt 84,6%; Đảng ủy đã chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể triển khai cho hội viên và  đoàn viên  học tập và đăng ký học tập; Chỉ đạo13 chi bộ tổ chức sinh hoạt thường kỳ vào ngày 03 hàng tháng để triển khai chuyên đề sâu rộng và tổ chức cho Đảng viên Đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngày 16/4/2013 Đảng ủy tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn tuyên dương 10 tập thể và 14 cá nhân điển hình. Kết luận về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, gắn với quán triệt Nghị quyết 01 của Huyện ủy về Dân số KHHGĐ có 173 đ/c tham gia. Việc xây dựng tiêu chí, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Đảng viên theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đảng ủy xây dựng kế hoạch cho các chi bộ và đồng thời bổ sung vào phiếu đăng ký thực hiện các tiêu chí chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Kết quả có 143/163 Cán bộ Đảng viên đăng ký đạt 88%. Công chức, chuyên trách cấp xã: 36/36 (đạt 100%). Mặt trận tổ quốc đã triển khai cho các thành viên do MTTQ xã chủ trì; Sau đó các tổ chức đoàn thể triển khai chỉ thị 03 cho hội viên, đã có 1685 hội viên đã tiếp thu và đăng ký. Sau khi xây dưng những chuẩn mực nhìn chung được sự đồng tình hưởng ứng thực hiện tốt của cán bộ Đảng viên, công chức xã. Lãnh đạo việc tổ chức kiểm điểm và khắc phục sửa chữa khuyết điểm theo tinh thần NQTW4 khóa XI. Ngày 15/5, tổ chức hội nghị sơ kết một năm thực hiện NQTW4 khóa XI, có 93 đ/c tham gia. Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá chỉ rõ những ưu mặt đã đạt được và chưa đạt được trong công tác lãnh đạo điều hành và kết quả khắc phục sửa chữa của tập thể, cá nhân sau khi tổ chức kiểm điểm  theo tinh thần NQTW4. Đã đánh giá việc sửa chữa các khuyết điểm của tập thể, cá nhân, rà soát lại những việc cần làm ngay để lãnh đạo chỉ đạo. Đến nay 5 việc đạt ra đều được giải quyết chu đáo tạo được niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong 21 tồn tại được góp ý đến nay đã tập trung sửa chữa được 11 khuyết điểm, 10 khuyết điểm đang tập trung khắc phục. Với các thành tích đã đạt được, trong 2 năm 2012 và 2013, Đảng bộ xã Hồng Sơn luôn đạt danh hiệu Đảng bộ Trong sạch và vững mạnh của huyện Đô Lương.
Đối với Hội đồng nhân dân, trong năm 2013 giám sát 6 cuộc. Tiếp tục thực hiện tốt việc tổ chức cho đại biểu HĐND Huyện tiếp xúc cử tri hội trường nhân dân xã và tại xóm 3, xóm 6. Tổ chức lấy phiếu góp ý vào dự thảo sửa đổi hiến pháp 92 và lấy phiếu tín nhiệm các, Chỉ đạo Đại biểu HĐND xã tiếp xúc cử tri và trả lời các ý kiến cử tri quan tâm. Nâng cao chất lượng các kỳ họp, hàng tháng đại biểu hội đồng đều dành thời gian lắng nghe tâm tư nguyên vọng của cử tri để có tham mưu cho BTV Đảng ủy xử lý kịp thời.
Ủy ban nhân dân xã đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, tiếp tục được quan tâm; công tác đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền, bổ sung cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, tạo ra bước chuyển mới của văn hoá công sở đảm bảo gần dân, phát huy dân chủ rộng rãi trong đời sống xã hội. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, kiến nghị phản ánh khiếu nại tố cáo được quan tâm, duy trì tốt lịch tiếp công dân định kỳ vào sáng thứ 3 thứ 6 hàng tuần.  Đã giải quyết cơ bản những vấn đề mà người dân quan tâm, không để xảy ra tình trạng bức xúc, gây điểm nóng khiếu kiện đông người. Lãnh đạo UBND xã đã làm tốt công tác tham mưu với Đảng ủy - HĐND phối hợp UBMTTQ và các đoàn thể,Chính quyền, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước và quy định của địa phương.
Hoạt động của các tổ chức đoàn thể ngày càng được chú trọng và trong 3 năm qua đã đạt được nhiều thành tích như: Mặt trận tổ quốc, đã triển khai mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước, triển khai thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động lớn do cấp trên phát động  trong tâm là  phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; góp phần tích cực trong việc chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân; vận động ủng hộ người nghèo được 28.218.000đ/chỉ tiêu 24.000.000đ đạt 117,58%. Thường xuyên nắm bắt tình hình tư­ tưởng của đoàn viên, hội viên; tăng cường công tác giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, góp phần nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân. Tổ chức Đại hội mặt trận tổ quốc thành công tốt đẹp. Tổ chức kỷ niệm 83 năm ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc và trao các danh hiệu văn hóa, được nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Hội Nông dân đã tổ chức phát động nhiều phong trào thi đua sôi nổi thu hút đông đảo hội viên tham gia như: Tham gia cuộc thi nhà nông với chỉ thị 1956. “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” kết quả đạt giải 3 của cụm, phối hợp tổ chức lớp học chăn nuôi thú y do HND tỉnh mở có 35 hội viên tham gia, Tổ chức tuyên truyền chuyển giao KHKT được 21 buổi, có 1120 người tham gia. Chỉ đạo 9/9 chi hội tổ chức Đại hội chi hội nhiệm kỳ 2013 – 2015 đảm bảo dân chủ đúng quy trình, đúng định hướng, phối hợp cho hội viên vay 20 tấn vật tư phân NPK cho cho vụ đông xuân 2012- 2013 trị giá gần 100 triệu đồng. Phối hợp NHCS giải ngân cho hội viên với các loại vốn vay như vốn cho hộ nghèo, cận nghèo, học sinh sinh viên, vốn xây dựng nước sạch vệ sinh môi trường, vốn hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, vốn xuất khẩu lao động cho 132 hộ với số tiền 2,7 tỷ đồng.
Đoàn thanh niên, trong 3 năm qua đã giới thiệu 5 đoàn viên ưu tú tham gia học lớp cảm tình Đảng. Phối hợp với trường trung cấp nghề kinh tế - kỹ thuật Đô lương đó mở lớp tư vấn và giới thiệu việc làm cho 47 ĐVTN, tổ chức các hoạt động tuyên truyền chào mừng các ngày lễ lớn, các hoạt động bảo vệ môi trường thu hút đông đảo ĐVTN tham gia. Tổ chức Đại hội cháu ngoan Bác Hồ năm học 2012-2013 và tổng kết công tác Đội và phong trào thiếu nhi, có 96 Đại biểu cháu ngoan Bác Hồ tham dự, thực hiện tốt công tác vận động thanh niên tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
Hội Cựu Chiến binh: Phát huy truyền thống anh bộ đội cụ hồ trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Hội đã tập hợp được 271 hội viên, trong đó kết nạp mới được 14 đ/c. Hội đã phát động xây dựng quỹ hội đạt 13 600 000đ, Làm tốt công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, tổ chức các hội nghị để góp ý xây dựng Đảng, chính quyền có nội dung, chất lượng. 
Hội Phụ nữ: Trong 3 năm qua, hội Phụ nữ đã tổ chức cho 779 cán bộ, hội viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013, đạt tỷ lệ 90%. Vận động hội viên tiết kiệm được 254 kg gạo tiết kiệm, 548 con lợn tiết kiệm với số tiền 166.256.000 đồng, giúp đỡ 3 hội viên khó khăn số tiền 3 triệu đồng. Đã ủng hộ xây dưng “Mái ấm tình thương” 1.750.000 đồng đạt 101%. Tặng 02 suất quà cho 02 em học sinh lớp 2, tuy nghèo vượt khó học giỏi, trị giá mỗi suất quà 330.000 đồng,  tặng 01 bộ bàn ghế cho trường Tiểu học trị giá 01 triệu đồng nhân dịp khai giảng năm học mới. Đầu tư vốn từ quỹ Hội  11.000.000đ cho 2 mô hình phát triển kinh tế xóm 4, xóm 1. Trong năm 2013 Hội LHPN xã đã được UBND Huyện tặng giấy khen và phần thưởng trị giá 600.000 đồng. Trong hai năm 2012 và 2013 hội được hội liên hiệp phụ nữ tình khen thưởng.

KẾT LUẬN

Qua bao thăng trầm của lịch sử, qua nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính, vùng đất Hồng Sơn ngay nay là nơi quần tụ của nhiều dòng họ cùng sinh sống. Từ nhiều miền quê tới đây lập nghiệp, họ đã lập nên làng xóm, chống chọi với thiên tai, địch họa để xây dựng cuộc sống bình yên, ấm no và thịnh vượng. Từ đời này qua đời khác, người dân nơi đây đã cùng nhau giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa mà các thế hệ cha anh đã để lại. Nghề nghiệp, địa vị tuy khác nhau, song các thế hệ người dân Hồng Sơn đều giống nhau ở một điểm là yêu quê hương, yêu đất nước và luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, nhân dân Hồng Sơn đã không ngừng đấu tranh, dựng xây và phát triển, hình thành nên những giá trị văn hoá - lịch sử to lớn, góp phần tô đậm thêm truyền thống của quê hư­ơng. Bề dày những giá trị truyền thống ấy sẽ là nền tảng tinh thần để Đảng bộ và nhân dân tiếp tục phát huy thuận lợi, vư­ợt qua khó khăn, xây dựng quê h­ương ngày càng phát triển đi lên.
Qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, nhiều thế hệ cha ông đã không tiếc máu xư­ơng, xả thân nhằm giành lấy nền độc lập tự do cho quê hương, đất n­ước. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, có những thời điểm tình hình quê hương vô cùng đen tối. Thực dân Pháp đã đàn áp hết sức tàn khốc các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong phong trào Cần Vương. Xóm làng tiêu điều xơ xác, cảnh chết chóc, ly tán thường xuyên xẩy ra. Tuy nhiên, với ý chí quật cường, với tinh thần đấu tranh bất khuất, người dân Hồng Sơn đã cùng các nghĩa sỹ Cần Vương vượt qua những mất mát đau thương và mọi chông gai thử thách, ổn định cuộc sống; củng cố, xây dựng lực lượng, tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù. Đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dư­ới ngọn cờ vô sản, nhân dân các làng của Hồng Sơn đã nêu cao chí khí anh hùng, tích cực tham gia đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, Cuộc vận động dân chủ 1936-1939, Cuộc vận động giành chính quyền 1939-1945, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ khi đất nước giành được độc lập, các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Hồng Sơn luôn hăng hái, tích cực trong xây dựng chế độ mới; đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã kết thúc hoàn toàn thắng lợi, nhưng nước ta tạm thời chia làm hai miền. Miền Bắc hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục rơi vào gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ. Cùng với toàn miền Bắc, nhân dân Hồng Sơn vui mừng, phấn khởi, hăng hái bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Sau kháng chiến chống Pháp, miền Bắc nói chung, Hồng Sơn nói riêng phải đương đầu với biết bao khó khăn, thử thách. Hậu quả của cuộc chiến tranh khá nặng nề, thiên tai liên tiếp hoành hành đe doạ, các thế lực thù địch lại tìm cách chống phá ta về nhiều mặt, tư liệu sản xuất chủ yếu còn nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến… Phát huy truyền thống quê hương, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ và nhân dân Hồng Sơn đã kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Việc đầu tiên là tập trung khắc phục hậu qủa nặng nề do trận mưa lụt 1954 gây ra bằng việc khai hoang phục hoá, đẩy mạnh sản xuất rau màu ngắn ngày, phát huy tinh thần tương thân tương ái, giúp nhau vượt qua nạn đói, ổn định cuộc sống. Tiếp đó, nhân dân Hồng Sơn thực hiện thắng lợi chủ trương cải cách ruộng đất, hoàn thành mục tiêu “Người cày có ruộng”, đưa ruộng đất, trâu bò và tư liệu sản xuất khác từ tay địa chủ phong kiến về tay người nông dân, đem đến cho họ địa vị làm chủ ruộng đồng, làm chủ cuộc sống.
Để góp phần cải tạo quan hệ sản xuất, từ đó nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường tiềm lực phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta chủ trương xây dựng “Ba ngọn cờ hồng” ở miền Bắc. Hồng Sơn đã tích cực, hăng hái xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và vận động nhân dân vào hợp tác xã, tham gia mua cổ phần với tỷ lệ cao. Các hợp tác xã đã phát huy vai trò của mình trong việc quản lý, động viên nông dân lao động sản xuất, giúp đỡ nhau làm ăn, phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã ngày càng được xây dựng, củng cố; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thông qua Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất. Thực hiện đường lối của Đảng, Chi bộ và nhân dân Hồng Sơn tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp từ quy mô nhỏ được sáp nhập thành hợp tác xã có quy mô lớn hơn. Các hợp tác xã đã tổ chức khai hoang, phục hoá, mở rộng thêm diện tích đất sản xuất; củng cố, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã; tu sửa, nâng cấp hệ thống đường giao thông, cầu cống phục vụ cho sản xuất và đời sống; phát động các chiến dịch phân bón, làm thuỷ lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng… Nhờ vậy, sản xuất ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên, nhiệm vụ chi viện tiền tuyến luôn được hoàn thành tốt.
Thực hiện mưu đồ mở rộng chiến tranh hòng ngăn chặn mọi sự chi viện đối với miền Nam, từ năm 1965 đế quốc Mỹ chính thức mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn lại bước vào một thời kỳ mới: Vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà. Trước những nhiệm vụ nặng nề đó, nhiệm vụ nào Hồng Sơn cũng hoàn thành xuất sắc. Trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Hồng Sơn luôn luôn làm tốt công tác phòng tránh, đánh địch. Hàng trăm hầm trú ẩn, hàng ngàn mét giao thông hào được đào đắp. Chợ búa, trường học được sơ tán, dân quân thường xuyên luyện tập, canh phòng cẩn mật. Hồng Sơn còn phối hợp với các đơn vị bộ đội, cơ quan, xí nghiệp trên địa bàn tham gia trực chiến bắn máy bay, vận chuyển sơ tán lương thực và khắc phục hậu quả do Mỹ ném bom… Tất cả những việc làm đó của Hồng Sơn đã góp phần cùng nhân dân cả huyện, cả tỉnh và cả miền Bắc đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký với ta Hiệp định Pa-ri về Việt Nam và cay đắng, nhục nhã rút quân về nước.
Bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu, nhiệm vụ sản xuất cũng được Hồng Sơn hoàn thành tốt. Trong chiến tranh, các hoạt động sản xuất vẫn diễn ra khẩn trương, sôi nổi. Công tác khai hoang, phục hoá, cải tạo đồng ruộng, làm thuỷ lợi, phân bón, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất vẫn được quan tâm. Hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục được củng cố, nâng quy mô từ hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã lớn. Năng suất, sản lượng nông nghiệp được giữ vững, đời sống nhân dân vẫn đảm bảo.
Cùng với nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, trong nhiệm vụ chi viện tiền tuyến Hồng Sơn cũng luôn hoàn thành xuất sắc. Mỗi năm, hàng chục con em Hồng Sơn đã lên đường tham gia bộ đội, đi thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường. Hồng Sơn cũng đã đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm cho Nhà nước, góp phần để bộ đội, dân công ăn no đánh thắng.
Qua 21 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng anh dũng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Miền Nam  hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Hồng Sơn tự hào đã góp phần không nhỏ của mình vào sự nghiệp chung.
Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất nhưng Hồng Sơn nói riêng, cả nước nói chung lại phải đương đầu với những thử thách mới. Hậu qủa của cuộc chiến tranh rất nặng nề, thiên tai luôn rình rập, đe doạ, tàn phá làm cho các công trình cầu cống, đường sá, cơ sở vật chất của tập thể, nhà cửa của nhân dân bị hư hỏng, xuống cấp. Tỉnh Nghệ An, huyện Đô Lương nói chung và Hồng Sơn nói riêng rơi vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng làm ảnh hưởng đến tình hình mọi mặt của đời sống xã hội. Trước tình hình đó, nêu cao truyền thống quê hương, thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã phát động và thực hiện liên tục phong trào toàn dân hướng vào mặt trận sản xuất nông nghiệp, nhằm vào các khâu quan trọng là thuỷ lợi, phân bón, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích, sản xuất hè thu, rau màu và chăn nuôi để giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm. Riêng về công tác thuỷ lợi và khai hoang, Hồng Sơn đã ra quân mạnh mẽ với việc đắp đập; tu sửa, nạo vét hệ thống kênh mương trong toàn xã; huy động hàng trăm lao động đi nạo vét sông Đào, sửa chữa cống Hiệp Hoà, đi xây dựng hồ Kẻ Gỗ, nạo vét sông Nghèn; khai hoang phục hoá trong xã và mở rộng thêm diện tích đất sản xuất. Về phân bón, Hồng Sơn phát động một phong trào làm phân xanh, phân chuồng, nuôi bèo hoa dâu sôi nổi, đem lại nguồn phân bón dồi dào, góp phần tăng năng suất cây trồng. Nhờ những việc làm trên, mọi khó khăn dần dần được giải quyết, Hồng Sơn cơ bản tự trang trải được nguồn lương thực trên địa bàn, đảm bảo đời sống nhân dân.
Mặc dù đất nước đã thống nhất nhưng các thế lực phản động quốc tế vẫn không từ bỏ âm mưu chống phá nước nước ta. Cùng với nhân dân cả nước, Hồng Sơn đã tích cực, hăng hái động viên con em lên đường tòng quân nhập ngũ, đóng góp nhiều sức người, sức của cho chiến trường, góp phần đánh thắng bọn phản động xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thân yêu.
Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc dù đã có  cố gắng, song do gặp nhiều khó khăn cộng với những sai lầm, khuyết điểm, nền kinh tế - xã hội cả nước nói chung, Hồng Sơn nói riêng rơi vào khủng hoảng trầm trọng, phát triển chậm và thiếu vững chắc, thậm chí có lúc thụt lùi, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tháng 12/1986, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Thực hiện đường lối của Đảng, Hồng Sơn tích cực bắt tay xây dựng quê hương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bước đầu đổi mới, cũng như những nơi khác, địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Ảnh hưởng của cơ chế tập trung hành chính bao cấp, những tư tưởng, tập quán làm ăn cũ còn khá nặng nề nhưng Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đã trăn trở, đấu tranh để tìm ra cung cách quản lý, cung cách làm ăn mới và đã thu được những kết quả bước đầu hết sức quan trọng làm tiền đề cho chặng đường tiếp theo. Từ năm 1991, thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” do Đại hội VII của Đảng đề ra, tình hình cả nước nói chung, Hồng Sơn nói riêng có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Kinh tế - xã hội địa phương phát triển toàn diện, cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý, năng suất, sản lượng cây trồng trong nông nghiệp tăng vượt bậc, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại được mở mang và ngày càng phát triển mạnh mẽ, đưa lại nguồn thu nhập đáng kể. Cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật của xã được xây dựng  ngày càng hiện đại. Các đập nước được tu bổ, nâng cấp; hệ thống mương máng được tu sửa, nạo vét, hàng chục km được bê tông hoá phục vụ tích cực cho sản xuất. Hệ thống giao thông nội xã được nâng cấp, mở rộng, bê tông hoá với tổng chiều dài hàng chục km. Trường Tiểu học, Trường Trung học, Trường Mầm non, Trạm y tế được xây dựng khá kiên cố, tạo điều kiện tốt cho hoạt động dạy học, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Nhà bia tưởng niệm được xây dựng khang trang để tưởng nhớ các liệt sỹ đã hy sinh, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc của Đảng uỷ, chính quyền, đoàn thể từng bước được nâng cấp, tu bổ. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt: Nhà cửa được ngói hoá, xây dựng kiên cố; phương tiện đi lại, thông tin nghe nhìn ngày càng hiện đại và đạt tỷ lệ cao. Qua đó hệ thống kết cấu hạ tầng, bộ mặt quê hương có nhiều đổi mới. Cùng với kinh tế, lĩnh vực văn hoá - xã hội được chăm lo và ngày càng phát triển. Ngành giáo dục từng bước nâng cao quy mô, nền nếp và chất lượng. Số lượng, tỷ lệ giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi không ngừng tăng lên. Ngành y tế ngày càng làm tốt việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tuyên truyền vận động kế hoạch hoá gia đình. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao thường xuyên được tổ chức sôi nổi và có chất lượng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhìn lại chặng đường 80 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồng Sơn đã liên tục giành nhiều thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được thực hiện tốt. Quan hệ sản xuất từng bước cải tiến. Kinh tế ngày càng tăng trưởng mạnh. Các lĩnh vực văn hoá - xã hội được chăm lo, phát triển. Công tác an ninh quốc phòng luôn được đảm bảo, giữ vững. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị thường xuyên được coi trọng và làm tốt. Đảng bộ, Chính quyền, các tổ chức, đoàn thể được xây dựng ngày càng vững mạnh.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, bảo vệ và xây dựng quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 80 năm qua, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
1. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung và Hồng Sơn nói riêng luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo là nhân tố cơ bản quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, trong bất kỳ thời điểm lịch sử nào, trong tình hình nào cũng luôn phải giữ vững và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng (từ Đảng ủy xuống các chi bộ). Phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo. Không ngừng chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về lập trường tư tưởng và trình độ, năng lực chuyên môn. Luôn đổi mới công tác cán bộ, coi công tác tổ chức cán bộ là bộ phận quan trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên tiến hành liên tục, có kế hoạch và đúng nguyên tắc công tác phát triển đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với giám sát, kiểm tra và chỉnh đốn Đảng để không ngừng nâng cao phẩm chất cách mạng, sức chiến đấu của mối cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo đi đôi với việc xây dựng Đảng bộ, chi bộ “Trong sạch vững mạnh”.
2. Biết phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị. Đặc biệt chú trọng đến vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng. Chính Mặt trận tổ quốc và các tổ chức Đoàn thể đã có vai trò rất to lớn trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên đảm bảo vững mạnh về mọi mặt, đủ sức đảm đương các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương.
3. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do dân và vì dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng “Lấy dân làm gốc” và luôn luôn tâm niệm “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đảng phải gắn bó mật thiết với dân. Củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân phải thông qua những hoạt động thực tiễn, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân. Muốn phát huy được khả năng cách mạng to lớn của nhân dân, chủ yếu là nông dân, trước hết phải nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí, ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân. Kiên quyết khắc phục tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
4. Biết khơi dậy và phát huy tối đa những giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân dân. Trải qua các thời kỳ lịch sử, người dân Hồng Sơn không những xây dựng nên xóm, làng ngày càng đông đúc, giàu đẹp, mà còn hình thành nên truyền thống tốt đẹp, tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của quê hương, đất nước. Đó là truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm, truyền thống lao động cần cù chống chọi thiên tai, thú dữ, vượt qua mọi hiểm nguy, mở mang đồng ruộng, phát triển kinh tế với ước vọng lớn lao làm cho quê hương ngày càng giàu mạnh. Sức mạnh đoàn kết, tình tương thân, tương ái của người dân Hồng Sơn được xây dựng, củng cố và phát triển qua các thời kỳ dựng và giữ làng trở thành truyền thống, tài sản vô cùng quý báu được truyền lại cho quê hương Hồng Sơn. Truyền thống đó đã giúp Hồng Sơn vượt qua mọi chông gai, mọi kẻ thù hung ác để sinh tồn và phát triển. Vì vậy, khơi dậy và phát huy các truyền thống, giá trị ấy là vấn đề mấu chốt thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển của Hồng Sơn ngày càng vững chắc.
Những kinh nghiệm đó được rút ra từ thực tế lịch sử mang giá trị to lớn. Đó là chiếc “Chìa khoá” để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hồng Sơn vận dụng, phát huy và giải quyết các vấn đề cụ thể đang đặt ra trên con đường đổi mới toàn diện quê hương, đất nước. Tự hào với quá khứ vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân Hồng Sơn đang nỗ lực tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức viết tiếp những trang sử vẻ vang trên quê hương, cùng cả nước vững bước đi lên trong thời kỳ mới.

PHỤ LỤC

I.DANH SÁCH CÁC LIỆT SỸ [33]

TT
Họ Và tên
Năm sinh
TT
Họ Và tên
Năm sinh
1
Vương Thị Hiên
1908
29
Bùi Đăng Thắng
1947
2
Lê Văn Hán
1920
30
Nguyễn Bá Thiết
1949
3
Phạm Ngọc Kinh
1925
31
Hoàng Quốc Sinh
1956
4
Lê Văn Hai
1922
32
Dương Văn Tư
1953
5
Nguyễn Văn Thao
1924
33
Tăng Văn Thìn
1946
6
Nguyễn Xuân Phiếu
1922
34
Bùi Trọng Phiệt
1948
7
Hồ Đình Danh
1932
35
Trần Văn Thành

8
Thái Đình Hồng
1924
36
Nguyễn Cảnh Võ
1954
9
Bùi Đăng Nguyên
1920
37
Nguyễn Tất Mai
1954
10
Tăng Văn Ngọc
1949
38
Tăng văn Thung
1949
11
Trần Văn Đức
1942
39
Dương Công Sơn
1948
12
Lê Quang Mai
1938
40
Ng. Doãn Hùng
1950
13
Nguyễn Xuân Đảng
1944
41
Trương Đình Dần
1950
14
Đào Văn Năm
1947
42
Trần Văn Bính
1941
15
Trần Tự Cư
1947
43
Phạm Quốc Việt
1954
16
Nguyễn Quốc Kỳ
1944
44
Phạm Sỹ Nhàn
1946
17
Phan đăng Đương
1951
45
Trần Văn Dũng
1942
18
Phan đăng Long
1951
46
Ng. Cảnh Quang
1956
19
Ng.Xuân Nhượng
1949
47
Ng. Doãn Minh
1952
20
Lê Văn Tần
1949
48
Phạm Ngọc Bình
1955
21
Thái Bá Tính
1934
49
Nguyễn Đại An
1931
22
Lê Đức Quyết
1946
50
Nguyễn Xuân Danh
1960
23
Nguyễn Văn Quang
1946
51
Nguyễn Sỹ Quý
1963
24
Lê Đức Trung
1947
52
Phan Đăng Toàn
1956
25
Nguyễn Cảnh Linh
1946
53
Hoàng V. Thường
1955
26
Nguyễn Văn Quế
1940
54
Nguyễn Hữu Vinh
1949
27
Nguyễn Bá Thảo
1943
55
Tăng Văn Hùng
1974
28
Hoàng Văn Thắng
1950
56
Phạm Ngọc Sáng
1956

 [33] . Có 3 liệt sĩ (Quýnh, Lĩnh, Niêm) ở xã khác chuyển về theo người thân để hưởng chế độ nên không đưa vào danh sách liệt sĩ  của xã Hồng Sơn.

II.DANH SÁCH CÁC CHỨC DANH CÁN BỘ CHỦ CHỐT QUA CÁC THỜI KỲ

1. Danh sách các đồng chí Bí thư Chi bộ, Đảng bộ qua các thời kỳ


TT
Họ và tên
Thời gian công tác
  1
Trần Kim Trung
12/1945 - 4/1948
  2
Hồ Vĩnh Toại
4/1948 – 1/1949
  3
Thái Bá Phi
1/1949 – 6/1950
  4
Nguyễn Cảnh Nhượng
6/1950 – 6/1951
5
Hoàng Văn Phương
6/1951-12/1953
  6
Vương Đình Lục
12/1953-12/1955

Phạm Ngọc Phước
12/1956-1958
  7
Nguyễn Xuân Hợi
1958- 4/1964
  8
Hoàng Văn Thụy
4/1964-4/1968; 5/1969-3/1975; 4/1981-4/1985
9
Nguyễn Xuân Diên
4/1968-5/1969
10
Nguyễn Văn Chiến
3/1975-11/1977
11
Phạm Ngọc Xuyến
11/1977-4/1981
12
Trần Văn Nghiêm
4/1985-12/1986
13
Tăng Văn Huỳnh
12/1986-9/1995
14
Nguyễn Xuân Thành
9/1995-1998
15
Nguyễn Xuân Phấn
1998-2004
16
Nguyễn Văn Thành
2004-2/2010
17
Hoàng Văn Hải
2/2010-7/2010
18
Nguyễn Cảnh Minh
7/2010-6/2012
19
Nguyễn Hồng Xuân
6/2012

2. Danh sách các đồng chí Chủ tịch Hội đồng qua các thời kỳ

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
1
Phan Đăng Năm
1991-1994
2
Hoàng Văn Sơn
1998-1999
3
Nguyễn Xuân Phấn
2000-2004
4
Nguyễn Văn Thành
1994-1998, 2005-2010
5
Hoàng Văn Hải
2010
6
Tăng Văn Cường
2010-2012
7
Nguyễn Cảnh Minh
6/2012... nay

3. Danh sách  các đồng chí Chủ tịch xã qua các thời kỳ



TT
Họ và tên
Thời gian công tác
1
Trần Kim Dương
12/1945 -12/1947
2
Nguyễn Trọng Phượng
12/1947- 6/1951
3
Lê Biểu
6/1951- 1/1953
4
Hà Lê
1/1953-12/1953
5
Đào Văn Huỳnh
12/1953-12/1955
6
Hồ Đình Đảnh
2/1956-12/1956
7
Nguyễn Xuân Diên
12/1956- 1958; 3/1967-4/1968; 3/1973-3/1975
8
Phạm Ngọc Phước
11/1958-12/1960
9
Vương Đình Lục
12/1960-4/1962
10
Hoàng Văn Thụy
4/1962-4/1964
11
Phan Đăng Lẫm
4/1964-3/1967; 4/1968-5/1969
 12 
Trần Thị Dung
5/1969-3/1971; 3/1975-11/1977
13 
Lê Văn Nghĩa
3/1971-3/1973
14 
Lê Đức Dung
1977-1979
15 
Trần Văn Tụng
11/1977-4/1981
16 
Nguyễn Quốc Tỵ
4/1981-4/1984; 9/1989-11/1991
17 
Đào Văn Bình
4/1984-4/1987
18 
Hoàng Văn Huy
4/1987-9/1989
19 
Nguyễn Xuân Thành
11/1991-9/1995
20 
Phan Đăng Vân
9/1995-1997
21 
Nguyễn Văn Thành
1997-2004
22 
Hoàng Văn Hải
2004-2/2010
23 
Trần Văn Tý
2/2010-7/2010
24 
Trần Văn Ngọc
7/2010-6/2012
25
Trần Hoàng Anh
6/2012
4. Danh sách các đồng chí Ủy viên Thường vụ, Phó Bí thư Trực Đảng qua các thời kỳ

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
1
Hoàng Văn Thụy
1961-1962
2
Lê Văn Nghĩa
1962-1965
3
Nguyễn Văn Lân
1965-1969
  4
Trần Thị Dung
1971-1975
  5
Lê Đức Dung
1975-1977
  6
Nguyễn Quốc Tỵ
1977-19781
  7
Nguyễn Thanh Cúc
1981-1983
  8
Lê Thanh Châu
1983-1985
  9
Trương Công Thìn
1985-1989
10
Tăng Văn Nghi
1989-1990
11
Phan Đăng Năm
1991-1994
12
Nguyễn Văn Thành
1994-1997
13
Hoàng Văn Hải
1998-2004
14
Trần Văn Tý
2004-2010
15
Tăng Văn Cường
2010-

5. Danh sách các đồng chí Phó Chủ tịch HĐND xã qua các thời kỳ[34]

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
      1
. Nguyễn Thị Kim
1991-1994
   2.
 Phan Ngọc Tình
1999-2004
3
. Trần Văn Ngọc
2004-2009; 6/2012-nay
4
.  Lê Văn Ngọc
2009-2010

[34].  Danh sách các đồng chí Phó Chủ tịch HĐND hiện nay còn một số giai đoạn chưa có tư liệu, BBt sẽ bổ sung sau khi có đầy đủ tư liệu.

6. Danh sách các đồng chí Phó Chủ tịch xã qua các thời kỳ [35] 


TT
Họ và tên
Thời gian công tác
  1
Nguyễn Trọng Phượng
12/1945- 12/1947
  2
Lê Biểu
12/1947-6/1951
  3
Nguyễn Bá Kham
6/1951-12/1953
  4
Nguyễn Đăng Yên
12/1953-12/1954, 4/1962-4/1964
  5
Hoàng Bá Khánh
2/1956-12/1960, 1964-1967
   6
Hoàng Văn Phương
12/1960-4/1962
   7


  8
Nguyễn Xuân Diên
4/1964-3/1967
  9
Thái Bá Cảnh
4/1967-5/1969
11
Nguyễn Thị Kim
4/1967-12/1970
12
Võ Viết Tựa
5/1969-3/1971
13
Nguyễn Thị Huệ
12/1970-3/1971
14
Vương Đình Lục
3/1971-3/1973
15
Lê Dức Dung
3/1973-3/1975
16
Trần Văn Thuận
3/1975-4/1981
17
Bùi Đăng Nghĩa
4/1981-1984
18
Nguyễn Huy Bàng
4/1983-4/1985
20
Hoàng Văn Huy
1984-4/1987
19
Nguyễn Văn Xoan
4/1987-1988
21
Tạ Hữu Tam
1988-9/1989
22
Nguyễn Xuân Phấn
9/1989-1998
23
Phan Đăng Vân
11/1991-4/1994
24
Trần Văn Ngọc
1998-9/2000; 7/2005-7/2010
25
Trần Văn Tý
9/1995-2004
26
Lê Đức Tiến
2004-7/2005, 7/2010- nay

[35] . Danh sách các đồng chí Phó Chủ tịch, hiện nay còn một số giai đoạn chưa có tư liệu, BBt sẽ bổ sung sau khi có đầy đủ tư liệu.




TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Tỉnh ủy Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1998), tập 1 (1930 – 1954), nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Tỉnh ủy Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1999), tập 2 (1954 – 1975), nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Tỉnh ủy Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2008), tập 3 (1975 – 2005), nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Lịch sử Đảng bộ huyện Đô Lương (1930-1963) (2005), nxb Nghệ An, Nghệ An.
5. Đồng Khánh dư địa chí
6. Hồ sơ lý lịch đảng viên của các cá nhân lưu tại Văn phòng Đảng uỷ xã.
7. Bản tổng hợp sử liệu lịch sử Đảng bộ huyện Anh Sơn tập III (lưu tại phòng sử Ban tuyên giáo Nghệ An).
8. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
9. Báo Cứu quốc, chi nhánh số 6, số 968, ngày 24/6/1948.
10. Các văn bản báo cáo về tình hình phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của xã từ 1995-2010, lưu tại văn phòng Đảng uỷ xã.
11.  Đại Việt sử ký toàn thư.
12.  Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
13. Quốc triều chính biên toát yếu của Cao Xuân Dục .
14.  Lịch sử Việt Nam.
15.  Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch.
16.  Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.
17.  Tên làng xã Việt Nam đầu TK XIX.
18. Bách Khoa toàn thư mở tiếng Việt ( http://vi.wikipedia.org).
19. Cổng thông tin điện tử các sở: Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo; Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh; UBND các huyện: Diễn Châu, Yên Thành, Anh Sơn, Đô Lương.







Không có nhận xét nào: