Họ Tăng là một họ lớn. Thủy tổ là Tăng Nhuận Tử nguyên người bắc quốc, ở quận Thiên Thủy, tháng 5 năm 1407 theo tướng Liễu Thăng sang nước An Nam để truy đuổi tàn quân nhà Hồ. Sau khi cha con Hồ Quý Ly bị bắt ở cửa biển Kỳ La Hà Tĩnh, đơn vị của ông Tăng Nhuận Tử đóng quân tại phủ Diễn Châu; Tăng Nhuận Tử lấy vợ tại thôn Đông Hạnh, xã Đào Kiếm (sau đổi là Đài Hoa), tổng Cao Xá (nay là xã Diễn Quảng).
Năm 1427, quân nhà Minh bị nghĩa quân Lê Lợi vây ráp ở thành Đông Quan (Thăng Long), Liễu Thăng lại được phái đi cứu viện, Liễu Thăng bị nghĩa quân Lê Lợi đánh bại và bị chém đầu ở núi Mã Yên (tỉnh Lãng Sơn), quân nhà Minh thua to phải rút về nước. Tăng Nhuận Tử ở lại quê vợ lập nghiệp, sinh con và phát triển đến ngày nay.
Thành Thái năm thứ 15 tháng 8 ngày rằm (1903), cháu là tú tài Tăng Tuấn Du, phụng chỉ ghi lại gia phả.
Dưới thời phong kiến, do điều kiện lịch sử đất nước binh đao loạn lạc, họ Tăng cũng như bao dòng họ khác trên đất Việt li tán mỗi người một phương. Mãi đến năm 1992 lần theo trang gia phả của tổ tiên để lại, đối chiếu sử sách quốc gia, các bậc túc nho mới xác định được họ Tăng ở Hà Nội, Họ Tăng ở Yên Sơn (Đô Lương), Họ Tăng ở Quảng Xương Thanh Hóa, họ Tăng ở Yên Thành, họ Tăng ở Diễn Hạnh, họ Tăng ở Đông Trai Diễn Kỷ, họ Tăng ở Diễn Cát và họ Tăng ở Diễn Quảng là anh em ruột thịt một nhà.
Thành Thái năm thứ 15 tháng 8 ngày rằm (1903), cháu là tú tài Tăng Tuấn Du, phụng chỉ ghi lại gia phả.
Dưới thời phong kiến, do điều kiện lịch sử đất nước binh đao loạn lạc, họ Tăng cũng như bao dòng họ khác trên đất Việt li tán mỗi người một phương. Mãi đến năm 1992 lần theo trang gia phả của tổ tiên để lại, đối chiếu sử sách quốc gia, các bậc túc nho mới xác định được họ Tăng ở Hà Nội, Họ Tăng ở Yên Sơn (Đô Lương), Họ Tăng ở Quảng Xương Thanh Hóa, họ Tăng ở Yên Thành, họ Tăng ở Diễn Hạnh, họ Tăng ở Đông Trai Diễn Kỷ, họ Tăng ở Diễn Cát và họ Tăng ở Diễn Quảng là anh em ruột thịt một nhà.
Theo gia phả họ Tăng ở xã Yên Sơn, huyện Đô Lương: Đến đời thứ 12, ông Tăng Thế Thực (sinh năm 1656) di cư lên giáp Nghiêm Thắng, xã Đô Lương, tổng Đô Lương, huyện Nam Đường (nay thuộc xã Yên Sơn huyện Đô Lương), lấy vợ sinh con cháu và lập nghiệp tại giáp Nghiêm Thắng; bà vợ là Nguyễn Thị Bính; sinh được 3 người con trai Tăng Thế Thanh, Tăng Thế Điều, Tăng Thế Thụ.
Ông Tăng Thế Thụ di cư lên thôn Tiên Nông, xã Tiên Nông (nay là xóm 8, xã Hồng Sơn) sinh cơ lập nghệp. Căn cứ vào năm sinh của ông Thực, có thể dự đoán ông Thụ di cư lên xã Tiên Nông vào khoảng năm 1700.
Về sau, vào khoảng năm 1890, ông Tăng Thế Oánh con trai thứ hai của ông Tăng Thế Diêu là hậu duệ ông Tăng Thế Thanh (anh ruột ông Tăng Thế Thụ) di cư lên thôn Tiên Nông, xã Tiên Nông (nay là xóm 1, xã Hồng Sơn).
Về sau, vào khoảng năm 1890, ông Tăng Thế Oánh con trai thứ hai của ông Tăng Thế Diêu là hậu duệ ông Tăng Thế Thanh (anh ruột ông Tăng Thế Thụ) di cư lên thôn Tiên Nông, xã Tiên Nông (nay là xóm 1, xã Hồng Sơn).
a. Thế thứ họ Tăng chi nhánh ông Tăng Thế Thụ ở xã Hồng Sơn:
- Đời thứ nhất: Ông Thụ sinh được 9 trai, 1 gái; con trai là: Tăng Thế Đổng, Tăng Thế Trực, Tăng Thế Thung, Tăng Thế Thiền, Tăng Thế Diệp, Tăng Thế Châu, Tăng Thế Lĩnh, Tăng Thế Điệt, Tăng Thế Gia; sáu người con đầu đều bị chết sớm, chỉ còn 3 anh em.
- Đời thứ hai:
Ông Lĩnh sinh được 2 trai, 7 gái; con trai là: Tăng Thế Mỹ (chết sớm), Tăng Thế Doãn.
Ông Điệt sinh được 2 người con gái.
Ông Gia có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 7 trai, 1 gái; con trai là Tăng Thế Trương, Tăng Thế Viên, Tăng Thế Hội, Tăng Thế Trực, Tăng Thế Phờn, Tăng Thế Diệp, Tăng Thế Tuân; những người này đều vô hậu. Vợ cả chết, ông lấy người vợ thứ sinh được 1 trai là Tăng Thế Sinh.
Theo tư liệu của ông Tăng Văn Tâm ghi thì ông Tăng Thế Tuân là tổ của họ Tăng ở xóm 2. Chúng tôi xin phép ghi theo tư liệu của ông Tâm để mọi người cùng tìm hiểu tiếp.
Họ Tăng xóm 8
- Đời thứ ba:
Ông Doãn có vợ nhưng không sinh con.
Ông Sinh sinh được 4 trai, 2 gái và dưỡng tử 1 người con trai; con trai là: Tăng Thế Đỏ (chết khi còn nhỏ), Tăng Thế Hệ, Tăng Thế Diệm, Tăng Thế Luân (dưỡng tử). Ông Hệ ở lại vùng đất mà cha ông đã khai phá, còn 2 người em là ông Diệm và ông Luân xuống khai phá vùng đất giữa thôn Tiên Nông (nay là xóm 4 xã Hồng Sơn); đó là vào khoảng năm 1775, sinh cơ lập nghiệp cho đến ngày nay.
Ông Tuân xuống khai phá vùng đất giữa thôn Tiên Nông (nay là xóm 2 xã Hồng Sơn); ông có 2 bà vợ sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Tăng Thế Quỵnh, Tăng Thế Bờng.
- Đời thứ tư:
Ông Hệ có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 3trai, 1 gái; con trai là: Tăng Thế Khoát, Tăng Thế Cát (chết sớm), Tăng Thế Trịnh (chết sớm). Vợ chết, ông lấy vợ thứ sinh được 5 người con trai là: Tăng Thế Biểu, Tăng Thế Thanh, Tăng Thế Tiêu, Tăng Thế Tình, Tăng Thế Vĩnh.
Ông Thuần sinh được 1 trai, 1 gái; con trai là Tăng Thế Toàn (vô hậu).
- Đời thứ năm:
Ông Khoát có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 1 trai là Tăng Văn Thành. Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được 4 trai, 1 gái; con trai là là: Tăng Văn Vượng, Tăng Văn Huyên, Tăng Văn Hòa, Tăng Văn Thiện.
Ông Biểu sinh được 2 trai là: Tăng Văn Trí, Tăng Văn Lự (vô hậu).
- Đời thứ sáu:
Ông Thành sinh được 3 gái, vợ chết ông lấy vợ thứ nhưng không sinh con.
Ông Vượng có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 2 người con trai là: Tăng Văn Chế , Tăng Văn Độ. Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được 1 trai là Tăng Văn Quy (chết khi 3 tuổi).
Ông Huyên có 4 bà vợ, vợ cả sinh được 3 gái, 1 trai là Tăng Văn Đào (chết khi 3 tuổi). Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được sinh được 1 con trai là Tăng Văn Long. Vợ thứ mất ông lấy vợ ba sinh được sinh 1 lần, bà chết rồi con cũng chết. Vợ thứ tư sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là: Tăng Văn Huy, Tăng Văn Bình.
Ông Hòa sinh được 3 trai, 2 gái; con trai là: Tăng Văn Mận, Tăng Văn Yêng, Tăng Văn Hùng.
Ông Thiện sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là: Tăng Văn Quế, Tăng Văn Thế.
- Đời thứ bảy:
Ông Chế sinh được 6 gái, 3 trai; con trai là: Tăng Văn Sâm, Tăng Văn Đỏ (chết khi còn nhỏ), Tăng Văn Ngọc (l/sĩ).
Ông Độ sinh được 2 gái, 3 trai; con trai là: Tăng Văn Thận, Tăng Văn Vinh, Tăng Văn Quang.
Ông Long, vợ sinh 1 lần không nuôi được; dưỡng tử 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Hà.
Ông Long, vợ sinh 1 lần không nuôi được; dưỡng tử 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Hà.
Ông Huy sinh được 3 gái, 4 trai; con trai là: Tăng Văn Dương, Tăng Văn Lương, Tăng Văn Tâm, Tăng Văn Mùi.
Ông Bình có 2 bà vợ; vợ cả sinh 2 lần 3 người con không nuôi được, sinh tiếp 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Minh. Ông bà ly dị, ông lấy vợ thứ sinh được 2 trai là: Tăng Văn Đoài, Tăng Văn Chương.
Ông Mận sinh được 4 gái, 1 trai; con trai là Tăng Văn Việt và dưỡng tử Tăng Văn Lý.
Ông Yêng (Quảng) có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 2 gái đều chết lúc còn nhỏ. Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được 4 gái, 4 trai; con trai là Tăng Văn Thời, Tăng Văn Đại, Tăng Văn Bình, Tăng Văn Tuấn.
Ông Hùng (Trọng) có 4 bà vợ, 3 vợ trước sinh mỗi người 1 con nhưng đều chết. Ông lấy vợ thứ tư sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Duẩn, Tăng Văn Định.
Ông Quế sinh được 4 trai, 3 gái; con trai là: Tăng Văn Thìn (l/sĩ), Tăng Văn Vỹ, Tăng Văn Minh (chết lúc còn nhỏ), Tăng Văn ... (không rõ tên, chết lúc còn nhỏ).
Ông Thế có 2 bà vợ; vợ cả sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Thung (l/sĩ), Tăng Văn Dung. Vợ chết ông lấy vợ hai sinh được 4 trai là: Tăng Văn Quý, Tăng Văn Toàn, Tăng Văn Trung, Tăng Văn Thành.
- Đời thứ tám:
Ông Sâm sinh được 5 gái, 4 trai; con trai là: Tăng Văn Thành, Tăng Văn Tùng, Tăng Văn Bá, Tăng Văn Nhàn.
Ông Thận sinh được 4 gái, 3 trai; con trai là: Tăng Văn Sơn, Tăng Văn Hà, Tăng Văn Lẫm.
Ông Vinh sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là: Tăng Văn Châu, Tăng Văn Chương.
Ông Quang sinh được 1 trai, 1 gái; con trai là Tăng Văn Trung.
Ông Hà (con nuôi ông Long) sinh được 1 gái, 4 trai; con trai là: Tăng Văn Hùng, Tăng Văn Hải, Tăng Văn Hòa, Tăng Văn Thuận.
Ông Dương sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là: Tăng Văn Xuân, Tăng Văn Dũng.
Ông Dương sinh được 3 gái, 1 trai là Tăng Văn Đô.
Ông Tâm sinh được 2 trai là: Tăng Văn Thắng, Tăng Văn Lợi.
Ông Mùi sinh được 2 gái.
Ông Minh sinh được 2 trai là: Tăng Văn Hợi, Tăng Văn Nam.
Ông Đoài sinh được 2 trai là: Tăng Văn Mạnh, Tăng Văn Hùng.
Ông Chương sinh được 2 gái.
Ông Lý sinh được 3 gái, 2 trai; con trai là: Tăng Văn Dũng, Tăng Văn Nhung.
Ông Việt sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là: Tăng Văn Đông, Tăng Văn Công, Tăng Văn Đoàn.
Ông Thời có 2 bà vợ, vợ cả sinh 1 lần con bị chết lúc còn nhỏ. Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là: Tăng Văn Cường, Tăng Văn Dũng.
Ông Đại sinh được 3 gái.
Ông Bình sinh được 2 trai là: Tăng Văn Quang, Tăng Văn Đạo.
Ông Tuấn sinh được 3 trai là: Tăng Văn Hưng, Tăng Văn Tài, Tăng Văn Tưởng.
Ông Duẩn sinh được 1 trai là Tăng Văn Quân.
Ông Định có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Tăng Văn Anh. Vợ chết ông lấy vợ thứ sinh được 2 gái.
Ông Vỵ sinh được 3 gái, 2 trai; con trai là Tăng Văn Tân, Tăng Văn Chiến.
Ông Quý sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Tăng Văn Lý.
Ông Trung sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Kiên.
Ông Thành sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Tăng Văn Hào.
- Đời thứ chín:
Ông Văn Thành (con ông Sâm) sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Khánh.
Ông Tùng sinh được 4 gái.
Ông Bá sinh được 6 gái.
Ông Nhàn sinh được 2 trai là: Tăng Văn Hiếu, Tăng Văn Trường.
Ông Sơn sinh được 1 gái.
Ông Hà sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Mạnh.
Ông Lậm sinh được 1 trai là Tăng Văn Thắng.
Ông Hùng sinh được 1 gái.
Ông Dũng sinh được 1 trai là Tăng Văn Long.
Ông Đông sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Tăng Văn Phi.
Ông Công sinh được 1 gái.
Ông Cường sinh được 2 gái.
Họ Tăng xóm 4
Chi ông Tăng Thế Diệm
- Đời thứ tư:
Ông Diệm có 2 bà vợ, vợ cả là bà Thái Thị Đợt, bà Đợt chết (giỗ ngày 20/10) ông lấy vợ thứ là bà Hoàng Thị Hoan sinh được 6 trai là: Tăng Thế Tư, Tăng Thế Đỏ, Tăng Thế Tiền, Tăng Thế Ngượng, Tăng Thế Vũ, Tăng Thế Đoán.
- Đời thứ năm:
Ông Tiền sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Vờng, Tăng Văn Khương.
- Đời thứ sáu:
Ông Vờng sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Phượng, Tăng Văn Loan.
Ông Khương sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Tráng, Tăng Văn Trường.
- Đời thứ bảy:
Ông Loan sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Luân, Tăng Văn Lý, Tăng Văn Thân.
Ông Trường sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Hương.
- Đời thứ tám:
Ông Luân sinh được 4 trai là: Tăng Văn Lộc, Tăng Văn Phúc, Tăng Văn Đức, Tăng Văn Nhật.
Ông Lý sinh được 2 trai là: Tăng Văn Tài, Tăng Văn Dũng.
Ông Hương sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Tuấn.
- Đời thứ chín:
Ông Lộc sinh được 1 gái, 1 trai; con trai là Tăng Văn Tùng Dương.
Ông Phúc sinh được 2 người con trai là: Tăng Văn Thành, Tăng Văn Quân.
Ông Tài sinh được 1 gái, 1 trai; con trai là Tăng Văn An.
Ông Dũng sinh được 2 trai là: Tăng Văn Tấn, Tăng Văn Đạt.
Chi ông Tăng Thế Luân (theo tư liệu của ông Tăng Văn Tâm)
- Đời thứ tư:
Ông Luân sinh được 4 người con trai là Tăng Văn Đồng, Tăng Văn Vận, Tăng Văn Thiển, Tăng Văn Miện
- Đời thứ năm:
Ông Thiển sinh được 6 người con trai là Tăng Văn Cần, Tăng Văn Mận, Tăng Văn Tiệp, Tăng Văn Lục, Tăng Văn Ất, Tăng Văn Bính.
Ông Miện sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Long, Tăng Văn Hổ, Tăng Văn Ngọc.
- Đời thứ sáu:
Ông Cần dưỡng tử 2 người con trai là Tăng Văn Huynh, Tăng Văn Đệ.
Ông Mận sinh được 4 người con trai là Tăng Văn Công, Tăng Văn Bằng, Tăng Văn Tuất, Tăng Văn Út.
Ông Tiệp sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Hải.
Ông Lục sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Hường, Tăng Văn Huỳnh, Tăng Văn Chình.
Ông Ất sinh được 2 người con trai là Tăng Văn Hoàn, Tăng Văn Toàn.
Ông Bính sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Khanh.
Ông Hổ sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Hùng, Tăng Văn Sơn, Tăng Văn Liên.
Ông Ngọc sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Quang.
- Đời thứ bảy:
Ông Huynh sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Hóa, Tăng Văn Yên, Tăng Văn Bình.
Ông Đệ sinh được 3 người con trai là Tăng Văn Tới, Tăng Văn Cương, Tăng Văn Thường.
Ông Công sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Cường.
Ông Bằng sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Thiết.
Ông Tuất sinh được 2 người con trai là: Tăng Văn Phi, Tăng Văn Sơn.
Ông Út sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Hiệp.
Ông Hải sinh được 5 người con trai là: Tăng Văn Sơn, Tăng Văn Dũng, Tăng Văn Cường, Tăng Văn Phương, Tăng Văn Thông.
Ông Hường sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Khoa.
Ông Huỳnh sinh được 4 người con trai là: Tăng Văn Chung, Tăng Văn Nghĩa, Tăng Văn Nhân, Tăng Văn Hòa.
Ông Chình sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Quyết.
Ông Hoàn sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Phú.
Ông Toàn sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Hiếu.
Ông Khanh sinh được 2 người con trai là: Tăng Văn Tuấn, Tăng Văn Khoa.
Ông Hùng sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Khởi.
Ông Liên sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Tiến.
Ông Quang sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Hào.
- Đời thứ tám:
Ông Hóa sinh được 3 người con trai là ...
Ông Yên sinh được 2 người con trai là ...
Ông Tới sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Mạnh.
Ông Cương sinh được 1 người con trai là ...
Ông Sơn sinh được 1 người con trai là ...
Ông Khoa sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Cừ.
Ông Chung sinh được 2 người con trai là: Tăng Văn Phúc, Tăng Văn Hưng.
Ông Nhân sinh được 1 người con trai là Tăng Văn Minh.
Ông Hiếu sinh được 1 người con trai là ...
Họ Tăng xóm 2
Đời 4:
Ông Quynh sinh được 1 trai là Tăng Thế Lượng.
Ông Bờng có 2 bà vợ sinh được 1 trai là Tăng Thế Chí.
Đời 5:
Ông Lượng sinh được 1 người con gái.
Ông Chí có 2 bà vợ sinh được 3 trai, 2 gái; con trai là Tăng Văn Qua (mất), Tăng Văn Quán, Tăng Văn Thán.
Đời 6:
Ông Quán sinh được 3 trai, 2 gái; con trai là Tăng Văn Đáp, Tăng Văn Giáp, Tăng Văn Ất.
Ông Thán có 2 bà vợ sinh được 2 trai là Tăng Văn …. (mất), Tăng Văn Tâm.
Đời 7:
Ông Đáp có 2 bà vợ, vợ thứ sinh được 1 trai, 2 gái; trai là Tăng Văn Khoa (dượng tử).
Ông Giáp sinh được 2 trai, 3 gái; con trai là Tăng Văn Bình, Tăng Văn Qua (mất).
Ông Ất sinh được 3 trai là Tăng Văn Thành, Tăng Văn Thịnh, Tăng Văn Vượng.
Ông Tâm sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Tăng Văn Hồng, Tăng Văn Cường.
Đời 8:
Ông Bình sinh được 2 con trai đầu là Tăng Văn Kiên, Tăng Văn Chinh.
Ông Thành sinh được con trai đầu là Tăng Thế Thắng.
Ông Hồng sinh được con trai đầu là Tăng Thế Anh.
b. Thế thứ họ Tăng xóm 1, xã Hồng Sơn. Họ Tăng xóm 1 từ ông Tăng Thế Oánh đến nay đã phát triển được 6 đời.
Đời 1: Ông Tăng Thế Oánh sinh được 4 gái, 3 trai; con trai là: Tăng Văn Uyên, Tăng Văn Nguyên, Tăng Văn Viên.
Đời 2:
Ông Uyên sinh được 2 người con gái.
Ông Nguyên sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Tăng Văn Phiên.
Ông Viên có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 1 gái; vợ thứ sinh được sinh được 4 trai là: Tăng Văn Nghi, Tăng Văn Thi, Tăng Văn Ký, Tăng Văn Mùi.
Đời 3:
Ông Phiên sinh được 4 gái, 2 trai; con trai là Tăng Văn Hoàn, Tăng Văn Hà.
Ông Nghi có 2 bà vợ sinh được 1 gái, 4 trai; con trai là: Tăng Văn Phúc, Tăng Văn Vinh, Tăng Thế Nhàn, Thăng Thế An (con vợ thứ).
Ông Thi sinh được 1 trai, 2 gái; trai là Tăng Văn Hòa.
Ông Ký sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Tăng Kiên Trung.
Ông Mùi sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là: Tăng Văn Chung, Tăng Văn Dũng, Tăng Văn Hùng
Đời 4:
Ông Hoàn sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là: Tăng Văn Giáp, Tăng Thế Kiên.
Ông Hà sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Tăng Thế Huy.
Ông Phúc sinh được 1 gái.
Ông Vinh sinh được 1 trai là Tăng Thế Hoàng.
Ông Nhàn sinh được 1 gái.
Ông Hòa sinh được 1 gái.
Ông Trung sinh được 1 trai là Tăng Thế Đồng.
Ông Chung sinh được 1 gái.
Ông Dũng sinh được 1 gái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét