Trang

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Các chi họ Phạm Ngọc, Phan Đăng và Hoàng Văn ở xã Hồng Sơn


         Năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592), khi nhà Mạc bị đánh bại ở Thăng Long, phải rút chạy lên Cao Bằng; hầu hết con cháu họ Mạc phải ly tán và đổi ra các họ khác để lánh nạn. Ở Nghệ An nay đã biết được 185 chi họ Mạc đổi ra họ khác, trong đó xã Tiên Nông có ít nhất 3 chi họ là: Phạm Ngọc, Phan Đăng và Hoàng Văn thuộc phái hệ thế tử Mạc Mậu Giang.

          Họ Mạc phát tích từ thôn Long Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương trước năm 1086 (nay thuộc xã  Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương – nơi Cầu Bính bắc qua sông Kinh Thầy). Thủy tổ họ Mạc không rõ tên sinh ra được hai người con trai: Trạng nguyên Mạc Hiển Tích và Thượng thư Mạc Hiển Quang. Đến đời thứ 6 là Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
          Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi, lên ngôi vua năm 1527, truyền ngôi được 5 đời (Mạc Đăng Doanh 1530-1540, Mạc Phúc Hải 1541-1546, Mạc Phúc Nguyên 1547-1561, Mạc Mậu Hợp 1562-1592) thì năm 1592, nhà Mạc bị đánh bại phải rút chạy khỏi Thăng Long, họ Mạc bắt đầu loạn lạc từ đó.
          Vua Mạc Phúc Nguyên có 6 người vợ và 16 người con trai. Bà Đặng Thị Xuân là vợ thứ 5 sinh được 2 người con trai là Mạc Mậu Giang và Mạc Đăng Bình. Sau khi nhà Mạc suy vi, Mậu Giang và Đăng Bình đều về Nghệ An tìm nơi ẩn dật.
          Mạc Mậu Giang đem gia đình (vợ là bà Ngô Thị … và 2 con trai: Phúc Tửu, Phúc Thuần) chạy về xã Cổ Lũng, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa lấy tên tự là Phúc Thanh. Khoảng 50 tuổi, ông đem theo người cháu đích tôn là Phương Danh vào Nghệ An. Ông vào xã Hưng Lập (nay là Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu) lấy vợ người vợ thứ hai là bà Phạm Thị … sinh được 2 trai Mậu Linh và Bạt Cử.  Ông lên xã Tiên Nông, huyện Đông Thành (nay là xã Hồng Sơn, huyện Đô Lương) lấy vợ thứ 3 là Cao Thị … , đây là thủy tổ của họ Phạm Ngọc ngày nay. Ông lại xuống xã Đại Đồng huyện huyện Nam Đường (nay là xã Thanh Tường, huyện Thanh Chương), tại đây ông lấy vợ cho cháu đích tôn (Phương Danh). Chưa yên, ông lại xuống xã Hạ Thành, huyện Đông Thành (nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) lấy bà vợ thứ 4 là bà Phan Thị (đây là thủy tổ cuẩ họ Phan Đăng). Cuối cùng ông xuống xã Đông Hải, huyện Đông Thành (nay là xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu) lấy bà vợ thứ 5 là bà Vũ Thị Kiêm sinh được sinh được 1 trai là Phúc Hải.

          Sau đây, xin giới thiệu sơ lược 3 chi họ tại xã Hồng Sơn:

          Họ Phạm Ngọc xóm 3

          Ông Mạc Mậu Giang từ xã Quỳnh lập, huyện Quỳnh Lưu lên xã Tiên Nông lấy bà vợ thứ 3 người họ Cao sinh được một người con trai, ông lại xuống Thanh Chương ... Ở xã Tiên Nông con cháu ông phát triển được 5 đời, gặp phải loạn âm con cháu chết cả, đến đời thứ 6 còn sót lại một người con trai là Phạm Văn Mông sinh khoảng 1755. Sợ quá, ông Mông chạy xuống Chợ Rộc lúc mới 15 tuổi; xuống Chợ Rộc ông lấy vợ sinh được 1 trai, 1 gái thì vợ chết. Năm 1789, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc lần thứ hai, lo sợ trước thế mạnh của Tây Sơn, ba cha con ông Mông lại quay lên xã Tiên Nông lánh nạn và định cư cho tới nay. Đến đời cháu ông Mông là ông Phạm Văn Chuyên đổi thành họ Phạm Ngọc. Từ cụ Phạm Văn Mông đến nay, họ Phạm Ngọc đã sinh được đến đời thứ 9.


1/ Phả ký 3 đời đầu

Thủy tổ:


          Như trên đã nêu, con cháu ông Mạc Mậu Giang với bà vợ thứ 3 ở thôn Tiên Nông, sinh 4 đời đầu đều chết hết; đến đời thứ 5 chỉ còn một người là Phạm Văn Mông. Do vậy, 4 đời không rõ tên, tuổi, ngày giỗ và phần mộ; họ Phạm tôn  ông Phạm Văn Mông làm thủy tổ.
          Ông Phạm Văn Mông, không rõ năm sinh, mất ngày 14/8 không rõ năm, chỉ biết thọ 81 tuổi.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Mộ; người ở Chợ Rộc, bà mất ở Chợ Rộc ngày 20/5 không rõ năm nào.
          Ông bà sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Văn Hộ, người con gái không rõ tên, tuổi, ngày giỗ.

Đời 2:

          Ông Phạm Văn Hộ, không rõ năm sinh; làm Hương mục; mất ngày 4/8 không rõ năm nào, hưởng thọ 90 tuổi.
          Vợ là bà Trương Thị Mông (tên con dâu trùng tên với cha chồng), không rõ năm sinh, ngày giỗ 5/5; người bên sông rào (không rõ ở xã Bắc Sơn hay Đặng Sơn).
          Ông bà sinh được 5 người con trai là Phạm Văn Chuyên, Phạm Văn Đa, Phạm Văn Vịa, Phạm Văn Vân, Phạm Văn Xin (vô hậu).

Đời 3:
          Con của ông Phạm Văn Hộ và bà Trương Thị Mông:

          1. Ông Phạm Ngọc Chuyên, không rõ năm sinh; làm Hương mục kiêm Văn hội, cai thôn rồi Lý trưởng thôn; ông mất ngày 26/9, không rõ năm và tuổi thọ. Để tránh sự truy tìm tung tích họ Mạc, ông Chuyên đã đổi họ Phạm Văn thành họ Phạm Ngọc.
          Vợ là bà Cao Thị Đức, không rõ năm sinh, mất ngày 11/8 không rõ năm nào.  
          Ông bà sinh được 2 trai là Phạm Ngọc Trinh, Phạm Ngọc Hòa.
 
          2. Ông Phạm Ngọc Đa, không rõ năm sinh, tuổi, phần mộ.
          Vợ là bà Bùi Thị Vung sinh được 2 trai là Phạm Ngọc Tô, Phạm Ngọc Dạng.
          3. Ông Phạm Ngọc Vịa
Vợ là bà Nguyễn Thị Đối; sinh được 1 trai là Phạm Ngọc Cượm (bị chết trôi lúc nhỏ).

          4. Ông Phạm Ngọc Vân
          Vợ là bà Trần Thị Trang.
          Ông bà sinh được 1 trai là Phạm Ngọc Dừa.
 
          5. Ông Phạm Ngọc Xin
Vợ là Phan người thôn Trường Kiều, ở rể về sau vô hậu.

         
2/ Phả ký các chi

          Từ đây chia thành 5 chi

CHI TRƯỞNG - ÔNG PHẠM NGỌC TRINH

Đời 4: 

          Con của ông Phạm Ngọc Chuyên và bà Cao Thị Đức:

          Ông Phạm Ngọc Trinh, sinh năm 1868; làm Lý trưởng, sau làm Hương hội, làm thủ chỉ xã; mất 1949, thọ 82 tuổi, ngày giỗ 6/5.
          Vợ là bà Lê Thị Quynh, sinh năm 1876, mất năm 1946, thọ 71 tuổi, giỗ ngày 9/12.
          Ông bà sinh được 2 trai là Phạm Ngọc Xự, Phạm Ngọc Lự.

Đời 5:
 
Con của ông Phạm Ngọc Trinh và bà Lê Thị Quynh:

          1. Ông Phạm Ngọc Xự, sinh năm 1890; làm Hương bộ 26 năm, đến năm 1945 thì nghỉ; được phong trật Cửu phẩm văn giai, bằng Phó tổng do quan phủ cấp; mất năm 1987, giỗ ngày 15/7.
          Vợ cả là bà Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1901, mất tháng 6 nhuận năm 1941, hưởng dương 41 tuổi, giỗ ngày 23/6.
          Ông bà sinh được 2 trai, 3 gái: Phạm Ngọc Quyền, Phạm Thị Kế, Phạm Thị Thảnh, Phạm Ngọc Ánh, Phạm Thị Yết.
          Vợ kế là bà Phạm Thị Lục, người Hà Tĩnh, năm sinh 1919, mất 2/2/1992; thọ 74 tuổi, giỗ ngày 1/2.
          Ông bà sinh được 1 gái, 1 trai: Phạm Thị Nhâm, Phạm Ngọc Sáng.

          2. Ông Phạm Ngọc Lự, sinh năm 1893, không rõ năm mất, giỗ ngày 4/7.
          Vợ là bà Tăng Thị Tiêu, người họ Tăng xóm 4.
          Ông bà sinh được 2 trai, 3 gái: Phạm Ngọc Ky, Phạm Thị Nghi, Phạm Ngọc Phát, Phạm Thị Châu, Phạm Thị Hiên.
Đời 6:
 
Con của ông Phạm Ngọc Xự và bà Nguyễn Thị Phương:

          1. Bà Phạm Thị Kế
          Chồng là ông Nguyễn Bá Tuyết người ở xóm 2.

          2. Ông Phạm Ngọc Quyền, sinh năm 1920.
          Vợ là bà Hoàng Thị Quỵ con ông Hoàng Văn Chí ở xóm 4, sinh 1923, mất ngày 15/12/ 2010, thọ 88 tuổi.
          Ông bà sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là Phạm Ngọc Việt, Phạm Thị Nam, Phạm Ngọc Trực, Phạm Ngọc Kiểm.
                   
          3. Bà Phạm Thị Thảnh
          Chồng là Hoàng Văn Tuý con ông Hoàng Văn Chí ở xóm 4.
 
          4. Ông Phạm Ngọc Ánh, sinh năm 1930.
          Vợ là bà Hoàng Thị Thùy con ông Hoàng Văn Đợt ở xóm 4; sinh1930, mất 16/12/2010, thọ 81 tuổi.
          Ông bà sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Phạm Thị Thanh, Phạm Ngọc Hoa, Phạm Ngọc Huệ, Phạm Thị Lan.

          5. Bà Phạm Thị Yết.
          Chồng là Hoàng Văn Thụy con ông Hoàng Văn Chí ở xóm 4.
         
Con của ông Phạm Ngọc Xự và bà Phạm Thị Lục:

          6. Bà Phạm Thị Nhâm, sinh năm 1952.
          Chồng là Tăng Văn Toàn con ông Tăng Văn Ất ở xóm 4, nay gia đình ở xóm 6.
          7. Ông Phạm Ngọc Sáng, sinh năm 1955; đi bộ đội, hy sinh ngày 3/2/1979 (giỗ ngày 6/1 âl).
          Vợ là bà Nguyễn Thị Hương con ông Nguyễn Văn Công ở cùng xóm, sinh năm1951.
          Ông bà sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Thắng, Phạm Thị Hoa.

Con của ông Phạm Ngọc Lự và bà Tăng Thị Tiêu:

          1. Ông Phạm Ngọc Ky, sinh năm 1926, không rõ năm mất, giỗ ngày 2/4.
          Vợ cả là bà Nguyễn Thị Thưởng người xã Đà Sơn, không rõ năm sinh, năm mất.
          Ông bà sinh được 1 gái, 1 trai: Phạm Thị Hòe, Phạm Ngọc Bình.
           Vợ thứ là bà Nguyễn Thị Tại người xã Bắc Sơn, không rõ năm sinh.
          Ông bà sinh được 2 gái: Phạm Thị Xuân, Phạm Thị Thu.
 
          2. Bà Phạm Thị Nghi
          Chồng là ông Hoàng Khánh ở cùng xóm.

          4. Ông Phạm Ngọc Phát, sinh năm 1937, mất năm 2013, thọ 77 tuổi, ngày giỗ 7/3.
          Vợ là bà Tăng Thị Dương con ông Tăng Văn Lộc ở xóm 4, sinh năm 1942.
          Ông bà sinh được 4 gái, 6 trai: Phạm Thị Hà, Phạm Ngọc Kha, Phạm Ngọc Dung, Phạm Ngọc Giang, Phạm Thị Hoa, Phạm Thị Chương, Phạm Ngọc Khương, Phạm Thị Ngân, Phạm Ngọc Hiển, Phạm Ngọc Mười.

          5. Bà Phạm Thị Đạt
          Chồng là ông Hoàng Xuân Hồng ở cùng xóm.

          6. Bà Phạm Thị Hiên, giáo viên tiểu học về hưu.
          Chồng là ông Nguyễn Doãn Thủy ở cùng xóm.

Đời 7:
Con của ông Phạm Ngọc Quyền và bà Hoàng Thị Quỵ:

          1. Ông Phạm Ngọc Việt, sinh năm 1944.
          Vợ là Nguyễn Thị Hoàn, sinh năm 1948.
          Ông bà sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là: Phạm Ngọc Đỉnh, Phạm Ngọc Nhu, Phạm Thị Tú, Phạm Ngọc Vy.

          2. Bà Phạm Thị Nam, sinh năm 1952; bộ đội chuyển ngành, công tác ở Bệnh viên Y học dân tộc Nghệ An, đã nghỉ hưu.
          Chồng là Nguyễn Khánh Sơn người cùng xóm. Gia đình cư trú tại TP Vinh.
          3. Ông Phạm Ngọc Trực, sinh năm 1954; bộ đội chuyển ngành.
          Vợ là bà Đậu Thị Bình, sinh năm 1960
          Ông bà sinh được 4 gái, 1 trai: Phạm Thị Chi, Phạm Ngọc Phi, Phạm Thị Thảo, Phạm Thị Hiền, Phạm Thị Hòa.
          Ông bà làm việc ở ngành lâm nghiệp huyện Nghĩa Đàn, gia đình cư trú tại Thái Hòa.
  
          4. Ông Phạm Ngọc Kiểm, sinh năm 1961.
          Vợ là Nguyễn Thị Việt, con ông Nguyễn Quốc Mai ở xóm 9.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Hường, Phạm Ngọc Trường, Phạm Thị Yến.
            
Con của ông Phạm Ngọc Ánh và bà Hoàng Thị Thùy:

          1. Bà Phạm Thị Thanh, sinh năm 1952.
          Chồng là ông Đặng Văn Toàn con ông Đặng Văn Toản ở xóm 1.

          2. Ông Phạm Ngọc Hoa, sinh năm 1953; bộ đội chuyển ngành, công tác ở ngành TDTT Nghệ An.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Năm con ông Nguyễn Cảnh Khiêm ở xóm 2.
          Ông bà sinh được 1 gái, 2 trai: Phạm Thị Hằng, Phạm Ngọc Cường, Phạm Ngọc Thịnh.
  
          3. Ông Phạm Ngọc Huệ, sinh năm 1959.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Nam con ông Nguyễn Xuân Kiểu ở cùng xóm, sinh năm 1959.
          Ông bà sinh được 3 trai, 2 gái: Phạm Ngọc Lam, Phạm Thị Giang, Phạm Thị Hiền, Phạm Ngọc Hòa, Phạm Ngọc Bình.
  
          4. Bà Phạm Thị Lan, sinh năm1975.
          Chồng ông Lê Đức Lợi con ông Lê Đức Quế ở xóm 4.

Con của ông Phạm Ngọc Sáng và bà Nguyễn Thị Hương:
           
          1. Ông Phạm Ngọc Thắng, sinh năm 1974.
          Vợ là bà  Tăng Thị Hiền con ông Tăng Văn Hường cùng xóm, sinh năm 1978.
          Ông bà sinh được 2 trai là: Phạm Thị Anh, Phạm Ngọc Quyến, Phạm Ngọc Tài.

          2. Phạm Thị Hoa, sinh năm 1978.
          Chồng là Hoàng Văn Hưng con ông Hoàng Văn Trọng xóm 4.

Con của ông Phạm Ngọc Ky và bà Thưởng:

          1. Bà Phạm Thị Hòe, sinh năm 1949, giáo viên THCS nghỉ hưu.
          Chồng tên là Thanh người xã Sơn Hải huyện Quỳnh Lưu.

          2. Ông Phạm Ngọc Bình, sinh năm 1953, đi bộ đội hy sinh.

Con của ông Phạm Ngọc Ky và bà Nguyễn Thị Tại:

          3. Bà Phạm Thị Xuân, sinh năm 1965.
          Chồng là ông Hoàng Văn Hải con ông Hoàng Văn Cát ở xóm 4.

          4. Bà Phạm Thị Thu, sinh năm1972.
          Chồng là ông Đặng Văn Minh con ông Đặng Văn Châu ở xóm 6.

Con của ông Phạm Ngọc Phát và bà Tăng Thị Dương:

          1. Phạm Thị Hà, sinh năm 1963.
          Chồng là Trần Đình Sâm ở xã Nghĩa Dũng huyện Tân Kỳ.

          2. Phạm Ngọc Kha, sinh năm 1965.
          Vợ là Nguyễn Thị Mai ở xã Hương Sơn huyện Tân Kỳ, sinh năm 1969.
          Gia đình cư trú tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Nhiều, Phạm Thị Giàu, Phạm Ngọc Mạnh.

          3. Phạm Ngọc Dung, sinh năm 1967.
          Vợ là Nguyễn Thị Gấm ở Thanh Hải, tỉnh Hải Dương; sinh năm1970.
          Ông bà sinh được 2 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Hiếu, Phạm Thị Hằng, Phạm Ngọc Diệu.
          Gia đình cư trú tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

          4. Phạm Ngọc Giang, sinh năm 1969.
          Vợ là Nguyễn Thị Nga ở Thạch Thất, Hà Nội.
          Ông bà sinh được 2 trai: Phạm Ngọc Hải, Phạm Ngọc Hương.
          Gia đình cư trú tại huyện Thạch Thất, Hà Nội.

          5. Phạm Thị Hoa, sinh năm 1972.
          Chồng là Trần Kim Hoàn ở Thống Nhất xã Đông Sơn.

          6. Phạm Thị Chương, sinh năm 1974.
          Chồng là Nguyễn Cảnh Hải ở cùng xã.

          7. Phạm Ngọc Khương, sinh năm 1977.

          8. Phạm Thị Ngân, sinh năm 1979.
          Chồng là Lê Đình Thìn ở Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu

          9. Phạm Ngọc Hiển, sinh năm 1982.
          Vợ là Nguyễn Thị Khuyên ở huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh.
          Ông bà sinh được 1 gái: Phạm Thị Mai Lan.

          10. Phạm Ngọc Mười, sinh năm 1985.

Đời 8:
Con của ông Phạm Ngọc Việt và bà Nguyễn Thị Hoàn:

          1. Ông Phạm Ngọc Đỉnh, sinh năm 1972; Chủ tịch UBMTTQ xã Hồng Sơn.
          Vợ là Nguyễn Thị Hải, người xã Đông Sơn sinh năm 1975.
          Ông bà sinh được 2 gái: Phạm Thị Loan, Phạm Thị Mai.

          2. Ông Phạm Ngọc Nhu, sinh năm 1975.
          Vợ là bà Lê Thị Kim con ông Lê Văn Long xã Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa; sinh năm 1978.
          Ông bà sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Anh, Phạm Thị Trang.

          3. Phạm Thị Tú, sinh năm 1978.        
          Chồng là Nguyễn Cảnh Độ người xã Thanh Hưng, huyện Thanh Chương.

          4. Phạm Ngọc Vy, sinh năm 1982.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Tâm con ông Nguyễn Văn Dân xã Thọ Dân, Thọ Xuân, Thanh Hóa.

Con của ông Phạm Ngọc Trực và bà Đậu Thị Bình:

          1. Phạm Thị Chi, sinh năm 1984.

          2. Phạm Ngọc Phi, sinh năm 1986.

          3. Phạm Thị Thảo, sinh năm 1988.

          4. Phạm Thị Hiền, sinh năm 1990.

          5. Phạm Thị Hòa, sinh năm 1992.

Con của ông Phạm Ngọc Kiểm và bà Nguyễn Thị Việt:

          1. Phạm Thị Hường, sinh năm 1986.

          2. Phạm Ngọc Trường, sinh năm 1988.

          3. Phạm Thị Yến, sinh năm 1997.

Con của ông Phạm Ngọc Hoa và bà Nguyễn Thị Năm:

           1. Phạm Thị Hằng, sinh năm 1981.
          Chồng là Nguyễn Tất Hùng, con ông Nguyễn Tất Lộc ở xóm 1.

          2. Phạm Ngọc Cường, sinh năm 1984.

          3. Phạm Ngọc Thịnh, sinh năm 1990.

Con của ông Phạm Ngọc Huệ và bà Nguyễn Thị Nam:

          1. Phạm Ngọc Lam, sinh năm 1979.
          Vợ là bà Hoàng Thị Kim Ngân sinh năm 1979, con ông Hoàng Văn Tiềm ở cùng xóm.
          Ông bà sinh được 1 trai là Phạm Ngọc Quân sinh năm 2005.

          2. Phạm Thị Giang, sinh năm 1981.
          Chồng tên là Công

          3. Phạm Thị Hiền, sinh năm 1983.
          Chồng tên là Chung

          4. Phạm Ngọc Hòa, sinh năm 1985.

          5. Phạm Ngọc Bình, sinh năm 1987.
         
Con của ông Phạm Ngọc Thắng và bà Tăng Thị Hiền:
         
1. Phạm Thị Anh, sinh năm 2001.
         
2. Phạm Ngọc Quyên

          3. Phạm Ngọc Tài

Đời 9:
Con của ông Phạm Ngọc Đỉnh và bà Nguyễn Thị Hải:

          1. Phạm Thị Loan, sinh năm 2001.

          2. Phạm Thị Mai, sinh năm 2003.

Con của ông Phạm Ngọc Nhu và bà Lê Thị Kim:

          1. Phạm Ngọc Anh, sinh năm 2003.

          2. Phạm Thị Trang, sinh năm 2007.

 Con của ông Phạm Ngọc Lam và bà Hoàng Thị Ngân:

          Phạm Ngọc Quân, sinh năm 2001.



CHI II - ÔNG PHẠM NGỌC HÒA

Đời 4:

          Con ông Phạm Ngọc Chuyên và bà Cao Thị Đức:

          Ông Phạm Ngọc Hòa (không rõ tên, Hòa là tên người con gái đầu); không rõ năm sinh, năm mất.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Huyên; không rõ năm sinh, năm mất.
          Ông bà sinh được 3 gái, 3 trai: Phạm Thị Hòa, Phạm Thị          , Phạm Ngọc Hợp, Phạm Ngọc Vợi, Phạm Ngọc Thời, Phạm Thị Khơi và một người con trai em ông Thời mất khi còn nhỏ.

Đời 5:

Con ông Phạm Ngọc Hòa và bà Nguyễn Thị Huyên:

          1. Bà Phạm Thị Hòa, lấy chồng về Nguyệt Lãng (nay thuộc xã Thịnh Thành huyện Yên Thành).

          2. Bà Phạm Thị             (không rõ tên), lấy chồng về xã Giang Sơn.

          3. Ông Phạm Ngọc Hợp, sinh năm 1905, mất năm 1980, ngày giỗ 9/3.
          Vợ cả là bà Nguyễn Thị Lai người họ Nguyễn Bá ở xóm 2, sinh năm 1915, mất ngày 10/12/1971.
          Ông bà sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Kinh, Phạm Thị Dinh.
          Vợ thứ là bà Hoàng Thị Ngơn con ông Hoàng Văn Quơn ở xóm 2; không rõ năm sinh, năm mất. Ông bà sinh được 3 gái, 1 trai: Phạm Thị Minh Tâm, Phạm Thị Hiên, Phạm Ngọc Hiền, Phạm Thị Thái.

          4. Ông Phạm Ngọc Vợi, không rõ năm sinh, mất 1989, ngày giỗ 8/11.
          Vợ là bà Phan Thị Biên con ông Phan Đăng Loạt ở xóm 2; không rõ năm sinh, mất 1989, ngày giỗ 4/11.
          Ông bà sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Xuyến, Phạm Thị Huyên.
          5. Ông Phạm Ngọc Thời sinh năm 1916, mất năm 1993, ngày giỗ 26/2.
          Vợ là bà Hoàng Thị Thiện con ông Hoàng Văn Quế ở xóm 2, sinh năm 1917,
mất năm 1970, ngày giỗ 9/12.
          Ông bà sinh được 2 gái, 7 trai: Phạm Thị Nhàn, Phạm Thị Lan, Phạm Ngọc An, Phạm Ngọc Bình, Phạm Ngọc Lý, Phạm Ngọc Trí, Phạm Ngọc Sửu, Phạm Ngọc Tuất, Phạm Ngọc Tuấn. 

          6. Bà Phạm Thị Khơi, chồng là Hoàng Văn Hương con ông Hoàng Văn Quế ở xóm 2.

Đời 6:

Con ông Phạm Ngọc Hợp và bà Nguyễn Thị Lai:

          1. Ông Phạm Ngọc Kinh, làm việc trong xưởng Đội Quyên; khi sản xuất, mìn nổ ông hy sinh, là liệt sĩ, ngày giỗ 01/12.

          2. Bà Phạm Thị Dinh, sinh năm 1933.
          Chồng là Tăng Văn Trường con ông Tăng Văn Khương ở xóm 4.
         
Con ông Phạm Ngọc Hợp và bà Hoàng Thị Ngơn:

          3. Bà Phạm Thị Minh Tâm, sinh năm 1951; cán bộ Sở Lao động Thương binh và Xã hội về nghỉ hưu tại TP Vinh.
          Chồng là ông Hồ Minh Đức, sinh năm 1951, người xã Hưng Hòa, TP Vinh; công tác ở Tỉnh Ủy Nghệ An. Ông bà đã ly hôn, chưa có con.
         
          4. Bà Phạm Thị Hiên, sinh năm 1953;  giáo viên trường Tiểu học Hồng Sơn nghỉ hưu.
          Chồng là Tăng Văn Hải con ông Tăng Văn Tiệp ở xóm 4; nay gia đình cư trú ở xóm 5 xã Đông Sơn, huyện Đô Lương.

           5. Ông Phạm Ngọc Hiền, sinh năm 1955; công tác tại Tổng Công ty Hằng Hải Việt Nam, Phó trưởng tàu VOSCO, về hưu tại TP Hải Phòng.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Lợi, sinh năm 1953, con ông Nguyễn Cảnh Liên xã Tràng Sơn vào xã Hồng Sơn sơ tán khi Mỹ đánh phá miền Bắc; giáo viên THPT về hưu tại Hải Phòng.
          Ông bà sinh được 3 gái: Phạm Ngọc Hà sinh 1979, Phạm Ngọc Tân sinh năm 1981, Phạm Ngọc Thảo sinh năm 1983.

          6. Bà Phạm Thị Thái, sinh năm 1958; giáo viên THCS.
          Chồng là Đỗ Tương Phùng, người Vũ Thư, Thái Bình. Gia đình nay cư trú ở xóm 12, xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương.

Con ông Phạm Ngọc Vợi và bà Phan Thị Biên:

          1. Ông Phạm Ngọc Xuyến, sinh năm 1939; bộ đội về hưu; nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hồng Sơn.                      
          Vợ là bà Hoàng Thị Hạnh con ông Hoàng Văn Chấn người cùng xóm, sinh năm 1942.
          Ông bà sinh được 5 gái, 3 trai: Phạm Thị Mai, Phạm Thị Hải, Phạm Thị Hồng, Phạm Ngọc Hùng, Phạm Thị Hường, Phạm Ngọc Sáu, Phạm Thị Bảy, Phạm Ngọc Duyên.

          2. Bà Phạm Thị Huyên, sinh năm 1950.
          Chồng là Trần Tự Bình, con ông Trần Tự Xin ở cùng xóm.

Con ông Phạm Ngọc Thời và bà Hoàng Thị Thiện:

          1. Bà Phạm Thị Nhàn, sinh năm 1942.
          Chồng là Lê Văn Tiến con ông Lê Văn Tích ở  xóm 4.

          2. Bà Phạm Thị Lan, sinh năm 1945.
          Chồng tên là Nguyễn Văn Hiệu, người xã Nghĩa Khánh, Nghĩa Đàn.

          3. Ông Phạm Ngọc An, sinh năm 1950; bộ đội phục viên; Chủ tịch Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh xã, BCH Hội CCB xã.
          Vợ là bà Phan Thị Mai con ông Phan Đăng Nhường ở xóm 2, sinh năm 1951.
          Ông bà sinh được 1 trai, 3 gái: Phạm Ngọc Thúy, Phạm Thị Quy, Phạm Thị Quyên, Phạm Thị Miện.
  
          4. Ông Phạm Ngọc Bình, sinh năm 1953; bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Phan Thị Quang con ông Phan Sĩ Bản ở cùng xóm sinh năm 1955.
          Ông bà sinh được 2 trai, 2 gái: Phạm Ngọc Giang, Phạm Ngọc Bắc, Phạm Thị Mến, Phạm Thị Thương.
  
          5. Ông Phạm Ngọc Lý, sinh năm 1955; bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Trương Thị Hà con ông Trương Văn Bính ở xóm 7, sinh năm 1959.
          Ông bà sinh được 5 gái: Phạm Thị Ngân, Phạm Thị Châu, Phạm Thị Sen, Phạm Thị Hương, Phạm Thị Phương.
  
          6. Ông Phạm Ngọc Trí, sinh năm 1957; bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Bùi Thị Sửu con ông Bùi Văn Khiêm ở xóm 4, sinh năm 1961.
          Ông bà sinh được 3 gái, 1 trai: Phạm Thị Xuân, Phạm Thị Diệu, Phạm Ngọc Duy, Phạm Thị Diệp.
  
          7. Ông Phạm Ngọc Sửu, sinh năm 1960.
          Vợ là bà Trương Thị Nga con ông Trương Văn Thắng ở xóm 4, sinh năm 1964.
          Ông bà sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là: Phạm Ngọc Kiên, Phạm Thị Hằng,  Phạm Ngọc Cường, Phạm Ngọc Sơn.

          8. Ông Phạm Ngọc Tuất, sinh năm1963; bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Võ Thị Hồng con ông Võ Viết Loan ở xóm 1 sinh năm 1964.
          Ông bà sinh được 6 gái: Phạm Thị Dung, Phạm Thị Thắm, Phạm Thị Thủy, Phạm Thị Hằng, Phạm Thị Hiền, Phạm Thị Nhi.

          9. Ông Phạm Ngọc Tuấn, sinh năm 1966. Bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Tạ Thị Thiềm con ông Tạ Hữu Hồng ở xóm 5 sinh năm 1969.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Phương, Phạm Thị Anh, Phạm Ngọc Oai.

Đời 7:

Con ông Phạm Ngọc Hiền và bà Nguyễn Thị Lợi:

          1. Bà Phạm Ngọc Hà
          Chồng là Trần Văn Nam người Hải Phòng.

          2. Bà Phạm Ngọc Tân
         
          3. Bà Phạm Ngọc Thảo
          Chồng là Đỗ Kỳ Anh người Hải Phòng.

Con ông Phạm Ngọc Xuyến và bà Hoàng Thị Hạnh:

          1. Bà Phạm Thị Mai, sinh năm 1964.
          Chồng là ông Trần Văn Ngọc con ông Trần Văn Tâm ở xóm 1.

          2. Bà Phạm Thị Hải, sinh năm 1969.
          Chồng là ông Nguyễn Văn Hóa con ông Nguyễn Văn Lậm ở xóm 4.

          3. Bà Phạm Thị Hồng, sinh năm 1974.
          Vợ thứ ông Trần Văn Thuật con ông Trần Văn Huyền ở cùng xóm.

          4. Phạm Ngọc Hùng, sinh năm 1976.

          5. Bà Phạm Thị Hường, sinh năm 1978.
          Chồng là ông Tăng Văn Quang con ông Tăng Văn Ngọc ở xóm 4.

          6. Phạm Ngọc Sáu, sinh năm 1980.

          7. Bà Phạm Thị Bảy, sinh năm 1982.
          Chồng là ông Thái Đắc Tám ở xã Bài Sơn.

          8. Phạm Ngọc Duyên, sinh năm 1984.

Con ông Phạm Ngọc An và bà Phan Thị Mai:

          1. Phạm Ngọc Thúy, sinh năm 1974; công tác tại Công ty XNK Việt Lào.
          Vợ là Nguyễn Thị Phương Thảo con ông Nguyễn Văn Phi ở phường Hồng Sơn, TP Vinh, sinh năm 1984.

          2. Bà Phạm Thị Quy, sinh năm 1976.
          Chồng là Bùi Văn Tịnh con ông Bùi Văn Hồng cùng xóm 4.

          3. Phạm Thị Quyên, sinh năm 1979. Công nhân nhà máy XNK Việt Lào .

          4. Phạm Thị Miện, sinh năm 1982. Giáo viên Mầm Non xã Giang Sơn Đông.
          Chồng là Bùi Văn Nam con ông Bùi Văn Lập cùng xóm 4.

Con ông Phạm Ngọc Bình và bà Phan Thị Quang:

          1. Phạm Ngọc Giang, sinh năm1980.

          2. Phạm Ngọc Bắc, sinh năm1982.
          Vợ là Bùi Thị Lam con ông Bùi Văn Quy xã Bồi Sơn

          3. Phạm Thị Mến, sinh năm1985.
          Chồng là tên là Ngọc người xã Hội Sơn, Anh Sơn.

          4. Phạm Thị Thương, sinh năm1988.
          Chồng tên là            người xã Giang Sơn Tây.

Con ông Phạm Ngọc Lý và bà Trương Thị Hà:

          1. Phạm Thị Ngân, sinh năm1981.
          Chồng tên là          người TP Đà Nẵng

          2. Phạm Thị Châu, sinh năm1983.
          Chồng là Tăng Văn Nhân con ông Tăng Văn Huỳnh, đã có 1 con trai, vợ chồng đã ly dị nhau.

          3. Phạm Thị Sen, sinh năm1985.

          4. Phạm Thị Hương, sinh năm1989.
          Chồng tên là                  người xã Nghi Ân, Nghi Lộc.

          5. Phạm Thị Phương, sinh năm1991.

Con ông Phạm Ngọc Trí và bà Bùi Thị Sửu:
         
          1. Phạm Thị Xuân, sinh năm1982.
          Chồng tên là Minh ở xã Minh Sơn.

          2. Phạm Thị Diệu, sinh năm1984.
          Chồng tên là Sự ở tỉnh Hòa Bình.

3. Phạm Ngọc Duy, sinh năm1986.
          Vợ là Nguyễn Thị Huyền ở Thanh Hóa.
          Ông bà sinh được 1 gái: Phạm Thị Lam.
          Vợ thứ là Nguyễn Thị Thanh ở xã Minh Sơn.
          Ông bà sinh được 1 gái:

          4. Phạm Thị Diệp, sinh năm1988.
          Chồng là Đào Danh Bảy ở xã Đông Sơn.

Con ông Phạm Ngọc Sửu và bà Trương Thị Nga:
         
          1. Phạm Ngọc Kiên, sinh năm1984.
          Vợ là Nguyễn Thị Thủy người xã Hưng Đông, TP Vinh.

          2. Phạm Thị Hằng, sinh năm1986.
          Chồng tên là Đức ở Diễn Hùng, Diễn Châu.

          3. Phạm Ngọc Cường, sinh năm1988.

          4. Phạm Ngọc Sơn, sinh năm1990.

Con ông Phạm Ngọc Tuất và bà Võ Thị Hồng:

          1. Phạm Thị Dung, sinh năm1986.
          Chồng là Nguyễn Văn Thiết con ông Nguyễn Văn Thứ ở cùng xóm.

          2. Phạm Thị Thắm, sinh năm1988.
          Chồng là                người ở tỉnh Cà Mâu.

          3. Phạm Thị Thủy, sinh năm1990.
          Chồng là               người ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc.

          4. Phạm Thị Hằng, sinh năm 1992.

          5. Phạm Thị Hiền, sinh năm 1994.

          6. Phạm Thị Nhi, sinh năm 2000.

Con ông Phạm Ngọc Tuấn và bà Tạ Thị Thiềm:

          1. Phạm Thị Phương, sinh năm1990.

          2. Phạm Thị Anh, sinh năm1992.
          Chồng là             người xã Nghĩa Phúc, Tân Kỳ.

          3. Phạm Ngọc Oai, sinh năm 2000.

Đời 8:

Con ông Phạm Ngọc Duy và bà Nguyễn Thị Huyền:

          1. Phạm Thị Lam

Con ông Phạm Ngọc Duy và bà Nguyễn Thị Thanh:

          2. Phạm Thị  ….



CHI III - ÔNG PHẠM NGỌC ĐƯỞM

Đời 4:

Con của ông Phạm Ngọc Đa và bà Bùi Thị Vung:

          Ông Phạm Ngọc Đưởm; không rõ năm sinh, năm mất; giỗ 21/10.
          Vợ là bà Phan Thị Lem con ông Phan Đăng Bưu ở xóm 2; không rõ năm sinh, năm mất; giỗ ngày 21/10.
          Ông bà sinh được 2 gái, 3 trai: 2 gái đầu không rõ tên, Phạm Ngọc Hạng, Phạm Ngọc Thể, Phạm Ngọc Chế.

Đời 5:

Con của ông Phạm Ngọc Đưởm và bà Phan Thị Lem:

          1. Người con gái đầu không rõ tên, lấy chồng họ Nguyễn Quốc cùng xóm; con trai là Nguyễn Quốc Nhượng, cháu nội là Nguyễn Quốc Du.
         
          2. Người con gái thứ 2 không rõ tên, lấy chồng họ Nguyễn Doãn ở xóm 5.
          3. Ông Phạm Ngọc Hạng; không rõ năm sinh, năm mất; giỗ ngày 5/12.
          Vợ là bà Tăng Thị Căn; không rõ năm sinh, năm mất; giỗ ngày 3/8.
          Ông bà sinh được 2 gái, 4 trai: Phạm Thị Tân, Phạm Ngọc Gặp, Phạm Ngọc Hoan, Phạm Ngọc Hỷ, Phạm Ngọc Du, Phạm Thị Xoan.

          4. Ông Phạm Ngọc Thể, sinh năm 1914, mất năm 1991 thọ 78 tuổi, giỗ 13/5.
          Vợ là bà Đào Thị Sâm người họ Đào xóm 2, sinh năm 1922, mất năm 1979 thọ 58 tuổi, giỗ 2/9.
          Ông bà sinh được được 3 gái, 3 trai: Phạm Thị Hồng, Phạm Thị Thanh, Phạm Thị Vân, Phạm Ngọc Tuyên, Phạm Ngọc Quang, Phạm Ngọc Hương.

          5. Phạm Ngọc Chế, không rõ năm sinh năm mất, ngày giỗ 12/9.

Đời 6:
Con của ông Phạm Ngọc Hạng và bà Tăng Thị Căn:

          1. Bà Phạm Thị Tân, bà lấy chồng và chết khi chưa có con.
          Chồng là Nguyễn Quốc Hai (Mai) con ông Nguyễn Quốc Đồng ở xóm 2.

          2. Phạm Ngọc Gặp, chết khi còn nhỏ, giỗ ngày 6/7.
         
          3. Ông Phạm Ngọc Hoan, sinh năm 1950.
          Vợ là bà Trần Thị Hương người xã Văn Sơn, sinh năm 1952.
          Ông bà sinh được 2 trai, 2 gái: Phạm Ngọc Võ, Phạm Thị Văn, Phạm Ngọc Tính, Phạm Thị Sửu.
  
          4. Ông Phạm Ngọc Hỷ, sinh năm 1952.
          Vợ là bà Trần Thị Bốn con ông Trần Tự Xin sinh năm 1953.
          Ông bà sinh được 3 gái, 2 trai: Phạm Ngọc Phú, Phạm Thị Nhường, Phạm Ngọc Thọ, Phạm Thị Phương, Phạm Thị Hiền, Phạm Thị Nhiên.
  
          5. Ông Phạm Ngọc Du, sinh năm 1955; bộ đội phục viên.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Hạnh con ông Nguyễn Đăng Nuôi ở xóm 8, sinh năm 1959.
          Ông bà sinh được 4 gái, 1 trai: Phạm Thị Vân, Phạm Thị Minh, Phạm Thị Thịnh, Phạm Thị Vượng, Phạm Ngọc Lâm.

          6. Bà Phạm Thị Xoan
          Chồng là Nguyễn Văn Quang em trai ông Nguyễn Văn Cúc ở xóm 1.

Con của ông Phạm Ngọc Thể và bà Đào Thị Sâm:

          1. Bà Phạm Thị Hồng
          Chồng là ông Nguyễn Cảnh Ban người Thanh Lâm xã Tràng Sơn.
         
          2. Bà Phạm Thị Thanh, sinh năm 1952.
          Chồng là Hồ Sĩ Bích người xã Thịnh Thành, huyện Yên Thành.
         
          3. Bà Phạm Thị Vân, sinh năm 1954.
          Vợ thứ của ông Trần Văn Mão người huyện Hưng Nguyên.

          4. Ông Phạm Ngọc Tuyên, sinh năm 1956; bộ đội xuất ngũ.
          Vợ là bà Phan Thị Đông người xã Đông Sơn.
          Bà Đông sinh được 1 trai là Phạm Ngọc Ước.
          Vợ chồng ông sống ly thân, mẹ con bà Đông ra Hà Nội làm ăn.

          5. Ông Phạm Ngọc Quang, sinh năm 1959.
          Vợ là bà Hoàng Thị Liễu, con ông Hoàng Văn Chiêm, sinh năm 1961.     Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Xuân, Phạm Thị Hải, Phạm Ngọc Kiên.
          6. Ông Phạm Ngọc Hương, sinh năm 1961.
          Vợ là bà Trần Thị Long người xã Bắc Sơn.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Tâm, Phạm Ngọc Hoài, Phạm Thị Sơn.
Đời 7:
Con của ông Phạm Ngọc Hoan và bà Trần Thị Hương:

          1. Phạm Ngọc Võ, sinh năm 1973.
          Vợ là Lê Thị Soa người xã Bắc Sơn sinh năm 1973.
          Vợ chồng sinh được 1 trai, 1 gái: Phạm Ngọc Tuân, Phạm Thị Linh.

          2. Phạm Thị Văn, sinh năm 1975.
          Chồng tên là Thành người Huế.

          3. Phạm Ngọc Tính, sinh năm 1978.

          4. Phạm Thị Sửu, sinh năm 1983.
Chồng Nam Định cong tác Hà Nội.

Con của ông Phạm Ngọc Hỷ và bà Trần Thị Bốn:
         
          1. Phạm Ngọc Phú, sinh năm 1980.
          Vợ là Nguyễn Thị Nhường người Diễn Châu.
          Ông bà sinh được 1 gái: Phạm Thị Trinh.
         
          2. Phạm Ngọc Thọ, sinh năm 1983.
          Vợ là Đào Thị Tuyết người xã Đông Sơn.
          Ông bà sinh được 2 trai: Phạm Ngọc Luyến, Phạm Ngọc Bảo.

          3. Phạm Thị Phương, sinh năm 1985.

          4. Phạm Thị Nhiên, sinh năm 1988.

          5. Phạm Thị Hiền, sinh năm 1990.
  
Con của ông Phạm Ngọc Du và bà Cao Thị Hạnh:

          1. Phạm Thị Vân, sinh năm 1981.

          2. Phạm Thị Minh, sinh năm 1983.

          3. Phạm Thị Thịnh, sinh năm 1989.

          4. Phạm Thị Vượng, sinh năm 1991.

          5. Phạm Ngọc Lâm, sinh năm 1996


Con của ông Phạm Ngọc Quang và bà Hoàng Thị Liễu:

          1. Bà Phạm Thị Xuân, sinh năm 1983.
          Chồng là Đỗ Quốc Cường người Hà Nội.
         
          2. Bà Phạm Thị Hải, sinh năm 1986.
          Chồng là Nguyễn Công Hiếu người xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Đàn.

          3. Phạm Ngọc Kiên, sinh năm 1990.
         
Con của ông Phạm Ngọc Hương và bà Trần Thị Long:

          1. Bà Phạm Thị Tâm, sinh năm 1990.
          Chồng tên là Má ở Hà Nội.

          2. Phạm Ngọc Hoài, sinh năm 1992.

          3. Phạm Thị Sơn, sinh năm 1995.

Đời 8:

Con của ông Phạm Ngọc Võ và bà Lê Thị Soa:

          1. Phạm Ngọc Tuân, sinh năm 2000.

          2. Phạm Thị Linh, sinh năm 2003.

Con của ông Phạm Ngọc Phú và bà Nguyễn Thị Nhường:

          Phạm Thị Trinh
         
Con của ông Phạm Ngọc Thọ và bà Đào Thị Tuyết:
         
          1. Phạm Ngọc Luyến, sinh năm 2005.

          2. Phạm Ngọc Bảo, sinh năm 2010.



CHI IV - ÔNG PHẠM NGỌC DẠNG

Đời 4:

Con của ông Phạm Ngọc Đa và bà Bùi Thị Vung:

          Ông Phạm Ngọc Dạng; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Tum; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Ông bà sinh được sinh được 2 gái, 3 trai: Phạm Thị Thảo, Phạm Ngọc Choai, Phạm Ngọc Tít (Tập), Phạm Thị Mày.

Đời 5:

Con của ông Phạm Ngọc Dạng và bà Nguyễn Thị Tum:

          1. Bà Phạm Thị Thảo
          Chồng là ông Hóa xã Bài Sơn.

          2. Ông Phạm Ngọc Choai; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Quý con ông Nguyễn Văn Nhỏ ở cùng xóm; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Ông bà sinh được 2 trai là Phạm Ngọc Long, Phạm Ngọc Côi.

          3. Phạm Ngọc Tập; không rõ năm sinh, năm mất; không lấy vợ.

          4. Phạm Thị Mày
          Chồng là Nguyễn Xuân Hợi ở xóm 8, nguyên là Bí thư Đảng ủy xã Hồng Sơn.
Đời 6:

Con của ông Phạm Ngọc Choai và bà Nguyễn Thị Quý:

          1. Ông Phạm Ngọc Long, sinh năm 1939, công tác ở Lâm trường Con Cuông về hưu.
          Vợ là bà Ngô Thị Liên, người Thái gốc Việt hồi hương, sinh năm 1944.   
          Ông bà sinh được 2 trai, 3 gái: Phạm Ngọc Hòa, Phạm Thị Hải, Phạm Ngọc Hạnh, Phạm Thị Hằng, Phạm Thị Hiếu.
          Gia đình cư trú ở xóm Vĩnh Hòa, xã Bồng Khê, huyện Con Cuông.
            
          2. Ông Phạm Ngọc Côi, sinh năm 1947, bộ đội về hưu hưởng chế độ thương binh.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Hảo người huyện Thanh Chương sinh năm 1953.
          Ông bà sinh được 2 gái, 4 trai: Phạm Thị Hào, Phạm Ngọc Hùng, Phạm Thị Chiến, Phạm Ngọc Thắng, Phạm Ngọc Lợi, Phạm Ngọc Mại.

Đời 7:

Con của ông Phạm Ngọc Long và bà Ngô Thị Liên:

          1. Phạm Ngọc Hòa, sinh năm 1967, chết khi 23 tuổi.

          2. Phạm Thị Hải, sinh năm 1968.
          Chồng là Chu Văn Hữu

          3. Phạm Ngọc Hạnh, sinh năm 1970.
          Vợ là Bùi Thị Vân, sinh năm 1970.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Linh, Phạm Thị Trinh, Phạm Ngọc Mạnh.

          4. Phạm Thị Hằng, sinh năm 1972.
          Chồng là Võ Văn Hà người huyện Thanh Chương.

          5. Phạm Thị Hiếu, sinh năm 1975.
          Chồng là Phạm Văn Hoàng

Con của ông Phạm Ngọc Côi và bà Nguyễn Thị Hảo:

          1. Phạm Thị Hào, sinh năm 1973.
          Chồng là Hoàng Văn Chung con ông Hoàng Văn Ân ở cùng xóm.

          2. Phạm Ngọc Hùng, sinh năm 1976.
          Vợ là Phan Thị Duyên con ông Phan Đăng Khiêm ở xóm 2.
          Ông bà sinh được 2 trai, 2 gái: Phạm Ngọc Hưng, Phạm Thị Hà, Phạm Thị Phương, Phạm Ngọc Nam.

          3. Phạm Thị Chiến, sinh năm 1978.
          Chồng là Cao Đăng Sơn người xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu.

          4. Phạm Ngọc Thắng, sinh năm 1981.
          Vợ là       Thị Hoài
          Ông bà sinh được 1 trai là Phạm Ngọc Minh.
          Gia đình cư trú tại xã Tân Sơn.

          5. Phạm Ngọc Lợi, sinh năm 1983.
          Vợ là          Thị Vinh người huyện Anh Sơn.

          6. Phạm Ngọc Mại, sinh năm 1988.

Đời 8:

Con của ông Phạm Ngọc Hạnh và bà Bùi Thị Vân:

          1. Phạm Thị Linh, sinh năm 1993.

          2. Phạm Thị Trinh, sinh năm 1994.

          3. Phạm Ngọc Mạnh, sinh năm 2007.

Con của ông Phạm Ngọc Hùng và bà Phan Thị Duyên:

          1. Phạm Ngọc Hưng, sinh năm 2001.

          2. Phạm Thị Hà

          3. Phạm Thị Phương

          4. Phạm Ngọc Nam, sinh năm 2013.

Con của ông Phạm Ngọc Thắng và bà        Thị Hoài:

          Phạm Ngọc Minh.



CHI V - ÔNG PHẠM NGỌC DỪA

Đời 4:

Con của ông Phạm Ngọc Vân và bà Trần Thị Trang:

          Ông Phạm Ngọc Dừa; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Vợ là bà Trương Thị Len ; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Ông bà sinh được 2 trai là Phạm Ngọc Lễ, Phạm Ngọc Phước.

Đời 5:

Con của ông Phạm Ngọc Dừa và bà Trương Thị Len:

          1. Ông Phạm Ngọc Lễ ; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Lai; không rõ năm sinh, năm mất, ngày giỗ.
          Ông bà sinh được 1 gái , 1 trai: Phạm Thị Minh,  Phạm Ngọc Tâm.

          2. Ông Phạm Ngọc Phước,  sinh năm 1927; nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch UBHC xã Hồng Sơn; không rõ năm mất, ngày giỗ.
          Vợ là bà Hoàng Thị Thân, người xã Bắc Sơn, sinh năm 1987.
          Ông bà sinh được 3 trai, 2 gái: Phạm Ngọc Toàn, Phạm Ngọc Thắng, Phạm Thị Lợi, Phạm Ngọc Lộc.
  
Đời 6:

Con của ông Phạm Ngọc Lễ và bà Nguyễn Thị Lai:

          1. Bà Phạm Thị Minh, sinh năm 1950.
          Chồng tên là Sỹ ở xã Bắc Sơn.

          2. Ông Phạm Ngọc Tâm, sinh năm 1955.
          Vợ là bà Nguyễn Thị Việt con ông Nguyễn Xuân Kiểu cùng xóm sinh năm 1956.
          Ông bà sinh được 1 gái, 3 trai: Phạm Ngọc Hà, Phạm Ngọc Tuấn, Phạm Thị Diệp, Phạm Ngọc Thương.
            
Con của ông Phạm Ngọc Phước và bà Hoàng Thị Thân:

          1. Ông Phạm Ngọc Toàn, sinh năm 1962; bộ đội phục viên.
          Vợ là Đào Thị Liên con ông Đào Văn Minh ở xóm 6, sinh năm 1966.
          Ông bà sinh được 2 gái, 2 trai: Phạm Ngọc Tiến, Phạm Thị Yến, Phạm Thị Hải, Phạm Ngọc Hoàng.
  
          2. Ông Phạm Ngọc Thắng, sinh năm 1964.
          Vợ là bà Chu Thị Nhàn con ông Chu Văn Lựu ở xóm 7 sinh năm 1973.
          Ông bà sinh được 2 gái, 1 trai: Phạm Thị Hoài, Phạm Ngọc Hùng, Phạm Thị Hạnh.

          3. Bà Phạm Thị Lợi, sinh năm 1968.
          Chồng là ông Nguyễn Văn Hậu, con ông Nguyễn Văn Trung ở xóm 4.
          4. Ông Phạm Ngọc Lộc, sinh năm 1971
          Vợ tên là Bùi Thị Quế người xã Đông Sơn sinh năm 1974
          Ông bà sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là: Phạm Thị Kiều, Phạm Ngọc Bảo, Phạm Ngọc Thành.

          5. Phạm Thị Cúc, sinh năm 1973
          Lấy chồng Trung Quốc.

Đời 7:

Con của ông Phạm Ngọc Tâm và bà Nguyễn Thị Việt:

          1.Phạm Ngọc Hà, sinh năm 1981.
Vợ là Nguyễn Thị Hạ
          Ông bà sinh được 1 trai: Phạm Ngọc …

          2. Phạm Ngọc Tuấn, sinh năm 1983.

          3. Phạm Thị Diệp, sinh năm 1985.
          Chồng là Hoàng Văn Quỳnh

          4. Phạm Ngọc Thương, sinh năm 1988.

Con của ông Phạm Ngọc Toàn và bà Đào Thị Liên:

          1. Phạm Ngọc Tiến, sinh năm 1986.

          2. Phạm Thị Yến, sinh năm 1988.

          3. Phạm Thị Hải, sinh năm 1991.

          4. Phạm Ngọc Hoàng, sinh năm 1992.

Con của ông Phạm Ngọc Thắng và bà Chu Thị Nhàn:

          1. Phạm Thị Hoài, sinh năm 1993.

          2. Phạm Ngọc Hùng, sinh năm 1995.

          3. Phạm Thị Hạnh

Con của ông Phạm Ngọc Lộc và bà Bùi  Thị Quế:

          1. Phạm Thị Kiều, sinh năm 1997.

          2. Phạm Ngọc Bảo, sinh năm 1998.

          3. Phạm Ngọc Thành
   


          Họ Phan Đăng, xóm 2:
         
          Theo gia phả họ Phan Đăng, sở dị họ Mạc đổi ra họ Phan Đăng là lấy họ mẹ ghép với chữ đệm của họ Mạc là Đăng; nếu tính Mạc Mậu Giang là đời thứ nhất, thì vị tổ đời thứ 10 là Phan Đăng Đệ. Ông Đệ sinh được 4 người con trai là: Phan Đăng Sinh, Phan Đăng Khoa, Phan Đăng Tiến, Phan Đăng Duệ. Ba người anh ở lại sinh cơ lập nghiệp tại xã Hạ Thành, người em út là Phan Đăng Duệ di cư lên thôn Phúc Yên xã Bạch Ngọc (nay thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Đô Lương).

Đời thứ 11: Ông Duệ sinh được 3 trai, 3 gái; con trai là Phan Đăng Nhiêm, Phan Đăng Kiên, Phan Đăng Cẩn. Năm 1845, ông Nhiêm di cư tới thôn Tiên Nông, xã Tiên Nông (nay là xóm 2, xã Hồng Sơn, huyện Đô Lương). Ông Kiên di cư tới thôn Xuân Lạc, xã Tiên Nông (nay là chợ Năn, xã Giang Sơn Tây).

Thế thứ họ Phan Đăng tại xã Tiên Nông như sau:

          Họ Phan Đăng tại xã Tiên Nông, từ ông Phan Đăng Nhiêm đến nay đã phát triển được 6 đời.

Đời 1:

Ông Nhiêm có 2 bà vợ, vợ thứ sinh được 5 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Quỳ, Phan Đăng Bưu, Phan Đăng Loạt.
Ông Kiên ở Giang Sơn sinh được 2 người con trai, trai đầu chết lúc còn nhỏ, trai thứ 2 là Phan Đăng Điều; sau khi ông Kiên mất, ông Nhiêm đưa ông Điều về xã Tiên Nông nuôi.

Đời 2:

Ông Quỳ sinh được sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Phan Đăng Thơn, Phan Đăng Thông (vô hậu).
Ông Bưu sinh được 3 trai, 6 gái; con trai là Phan Đăng Ngạn, Phan Đăng Han (vô hậu), Phan Đăng Trọng.
Ông Loạt có 2 bà vợ sinh được 3 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Đạt, Phan Đăng Tiếp, Phan Đăng Nhường (con bà vợ 2).
Ông Điều có 2 bà vợ sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Ngư, Phan Đăng Vân. 

Đời 3:

Ông Thơn sinh được 1 trai, 1 gái; trai là phan Đăng Yết.
Ông Ngạn sinh được 3 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Đoàn, Phan Đăng Bính.
Ông Trọng sinh được 5 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Lậm, Phan Đăng Ngọc (mất), Phan Đăn Long (l/sĩ).
Ông Đạt sinh được 4 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Cự, Phan Đăng Cường, Phan Đăng Thời.
Ông Tiếp sinh được 2 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Châu, Phan Đăng Chương, Phan Đăng Đương (l/sĩ).
Ông Nhường sinh được 6 gái.
Ông Ngư sinh được 3 gái, 4 trai; con trai là Phan Đăng Hợi, Phan Đăng Linh, Phan Đăng Sinh, Phan Đăng Hoạt.
Ông Vân sinh được 3 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Sơn, Phan Đăng Nam , Phan Đăng Duyên.

Đời 4:

Ông Yết sinh được 4 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Bình, Phan Đăng Yên.
Ông Đoàn sinh được 5 trai, 1 gái; con trai là Phan Đăng Hoàn, Phan Đăng Hải, Phan Đăng Bá, Phan Đăng Năm, Phan Đăng Hòa.
Ông Bính sinh được 3 trai, 4 gái; con trai là Phan Đăng Khiêm, Phan Đăng Khầm, Phan Đăng Trung.
Ông Lậm sinh được 4 trai, 4 gái; con trai là Phan Đăng Toàn (l/sĩ), Phan Đăng Quý, Phan Đăng Tý, Phan Đăng Bảy (mất).
Ông Cự sinh được 3 trai, 5 gái; con trai là Phan Đăng Kỳ, Phan Đăng Hồng, Phan Đăng Thế.
Ông Cường sinh được 4 trai, 3 gái; con trai là Phan Đăng Tuấn, Phan Đăng Tú, Phan Đăng Hoan, Phan Đăng Phượng.
Ông Thời sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Phan Đăng Dụng, Phan Đăng Tâm.
Ông Châu sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Hà, Phan Đăng Hái, Phan Đăng Sơn.
Ông Chương sinh được 1 gái, 1 tra; tai là Phan Đăng Linh.
Ông Hợi sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Danh, Phan Đăng Dũng, Phan Đăng Hiệp.
Ông Huệ sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Thắng, Phan Đăng Ngọc.
Ông Linh sinh được 2 trai là Phan Đăng Thân, Phan Đăng Thìn.
Ông Sinh sinh được 1 trai, 3 gái; trai là Phan Đăng Trường.
Ông Hoạt sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là Phan Đăng Đồng ….
Ông Sơn sinh được 1 gái.

Đời 5:

Ông Bình sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Phan Đăng Tuấn, Phan Đăng Hùng.
Ông Yên sinh được 1 trai là Phan Đăng Phi.
Ông Hoàn sinh 3 trai, 1 gái; con trai là Phan Đăng Chung, Phan Đăng Sinh, Phan Đăng Linh.
Ông Hải sinh 4 trai là Phan Đăng Lĩnh, Phan Đăng Tâm, Phan Đăng Lý, Phan Đăng Hóa.
Ông Bá sinh được 1 gái, 5 trai; con trai là Phan Đăng Sơn, Phan Đăng Minh, Phan Đăng Phương, Phan Đăng Phi, Phan Đăng Phú.
Ông Năm sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng Hiệp.
Ông Hòa sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Phan Đăng Hà, Phan Đăng Thân.
Ông Khiêm sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Phan Đăng Liêm, Phan Đăng Phúc.
Ông Khầm sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Khanh, Phan Đăng Thu.
Ông Trung sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng ...
Ông Quý sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Hóa, Phan Đăng Huy.
Ông Tý sinh được 2 gái.
Ông Kỳ sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Phan Đăng Hải, Phan Đăng Dương.
Ông Hồng sinh được 5 trai, 1 gái; con trai là Phan Đăng Huyên, Phan Đăng Chiến, Phan Đăng Nhân, Phan Đăng Hoàng, Phan Đăng Đông.
Ông Thế sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng Tỵ.
Ông Tuấn sinh được 4 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng Mùi.
Ông Tú sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Phan Đăng Lịnh, Phan Đăng Linh.
Ông Hoan sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Phan Đăng Hùng.
Ông Phượng sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng Mạnh.
Ông Dụng sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Phan Đăng Lam.
Ông Tâm sinh được 1 gái.
Ông Hà sinh được 2 trai là Phan Đăng Hùng, Phan Đăng Hoàng.
Ông Hải sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Phan Đăng Huy.
Ông Sơn sinh được 2 trai là Phan Đăng Quân, Phan Đăng Khải.


          Họ Hoàng Văn xóm 3
         
          Ông Phúc Hải là con vợ thứ 5 của Mạc Mậu Giang ở thôn Đông Hải (Diễn Kim). Ông Phúc Hải có 2 người vợ: Vợ thứ nhất là bà Phạm Thị Liễu, sinh được 3 người con trai có tên tự là: Phúc Thọ, Phúc Đỉnh, Phúc Đặc. Vợ thứ 2 là bà Đinh Thị Niêm, sinh được 4 trai: Phúc Duệ, Phúc Tâm, Phúc Trường, Phúc Vận. Họ này đổi thành họ Hoàng Văn theo.
          Năm Mậu Thân (1668) lại một phen bị triều đình truy đuổi, gia đình ly tán. ông Hoàng Phúc Hải cùng bà vợ thứ 2 đem 4 con trai chạy vào Huế; thấy không ổn, ông lại chạy ra Sơn Nam (nay là tỉnh Thái bình).
Khoảng năm 1700, con của ông Phúc Đỉnh là ông Hoàng Văn Chỉnh đem theo mẹ và 1 người cháu của ông Phúc Thọ là ông Hoàng Văn Tợng chạy lên thôn Tiên Nông, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành (nay thuộc xã Hồng sơn, huyện Đô lương). Ông Hoàng Văn Tợng  và Hoàng Văn Chỉnh lên lánh nạn tại thôn Tiên Nông, xã Tiên Nông và cư trú lại cho đến ngày nay.
Do biến cố của lịch sử và đặc biệt năm 1715 xã Tiên Nông xẩy ra dịch bệnh làm chết nhiều người, nên gia phả của họ Hoàng Văn chưa kết nối liên tục được, còn thiếu khoảng 3 đời (2,3,4).

Thế thứ họ Hoàng Văn tại xã Tiên Nông như sau:

Họ Hoàng Văn xã Tiên Nông từ Tợng, ông Chỉnh đến nay đã phát triển được 12 đời.    

          - Chi phái ông Hoàng Văn Tợng:

Đời 1: ông Tợng, nay chư rõ về con cháu của 3 đời kế tiếp.
 
Đời 5: ông Đởng sinh ra 2 con trai là Hoàng Văn Lân, Hoàng Văn Tiếu.

Đời 6: Ông Lân sinh được gái, 2 trai; Con trai là Hoàng Văn Đợt và Hoàng Văn Nhân.

Đời 7:
Ông Đợt sinh được 1 gái, 1 trai; trai là ông Hoàng Văn Cát.
Ông Nhân sinh được 1 con trai là Hoàng Văn Chỉnh.

Đời 8:
Ông Cát sinh được 2 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Vinh và Hoàng Văn Hải.
Ông Chỉnh sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Phương, Hoàng Văn Đông.

Đời 9:
Ông Vinh sinh được2 gái, 3 trai; con trai là Hoàng Văn Bình, Hoàng Văn Minh, Hoàng Văn Dũng.
Ông Hải sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Hồng, Hoàng Văn Thân.


          - Chi phái ông Hoàng Văn Chỉnh.

Đời 1: Ông Chỉnh có 4 người vợ là: Bùi Thị Nguyệt người xã Vạn Phần, Lê Thị Đào người xã Bạch Ngọc, Thái Thị Nga người xã Thịnh Sơn, Nguyễn Thị Hòa người thôn Cẩm Ngọc (Đông Sơn). Do gia phả chưa kết nối được nên không rõ các đời thứ 2,3,4; chỉ biết đời thứ 5  có 4 người con trai đặt tên là Xuân, Hạ, Thu, Đông; về sau cải lại tên Hoàng Văn Điển, Hoàng văn Hân, Hoàng Văn Giảng, Hoàng Văn Bớc.

Đời 5:
Ông Điển sinh năm 1801, mất năm 1909 (có 3 bà vợ) sinh được 6 gái, 3 trai; con trai là Hoàng Văn Hải, Hoàng Văn Bồi, Hoàng Văn Quơn.
Ông Hân sinh được 1 trai là Hoàng Văn Quỳnh.
Ông Giảng sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Khiêm, Hoàng Văn Tướn, Hoàng Văn Soạn.
Ông Bớc sinh được 1 gái 3 trai; con trai là Hoàng Văn Sung, Hoàng Văn Đích, Hoàng Văn Điu.

Đời thứ 6:
Ông Hải (có 2 bà vợ), sinh được 7 gái, 1 trai; con trai là Hoàng Văn Quế (con vợ thứ).
Ông Bồi sinh được 6 trai, 4 gái; con trai là Hoàng Văn Nhã, Hoàng Văn Tấn, Hoàng Văn Vấn, Hoàng Văn Chấn, Hoàng Văn Tám, Hoàng Văn Chín và dượng tử Lê Văn Hồ.
Ông Quơn sinh được 3 trai, 3 gái; con trai là Hoàng Văn Tơn, Hoàng Văn Thận, Hoàng Văn Hội.
Ông Quỳnh sinh được 1 trai là Hoàng Văn Lưu.
Ông Tướn sinh được 1 trai là Hoàng Văn Chí.
Ông Soạn sinh được 2 gái 1 trai; trai là Hoàng Văn Cúc.
Ông Sung sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Châu, Hoàng Văn Tương.

Đời 7:
Ông Quế sinh được 3 gái 4 trai; con trai là Hoàng Văn Chương (Phương), Hoàng Văn Sương, Hoàng Văn Lục (tảo vong), Hoàng Văn Huyền.
Ông Nhã sinh năm 1898 sinh được 3 gái, 3 trai; con trai là Hoàng Văn Thuần, Hoàng Văn Khang, Hoàng Văn Hòa.
Ông Tấn sinh có 2 bà vợ, vợ thứ 2 sinh được 2 gái.
Ông Vấn sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Tư.
Ông Chấn sinh được  5 trai, 5 gái; con trai là Hoàng Văn Anh (tảo vong), Hoàng văn Chiêm, Hoàng Văn Hiền, Hoàng Văn Bích, Hoàng Văn Yêm.
Ông Tám sinh được 3 trai, 4 gái; con trai là Hoàng Văn Ân, Hoàng Văn Thân, Hoàng Văn Hân.
Ông Chín có 2 bà vợ, vợ 2 sinh được 3 gái.
Ông Tơn có 2 bà vợ, vợ 2 sinh được  trai là Hoàng Văn Trung, Hoàng Văn Thành.
Ông Thận sinh được 5 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Long, Hoàng Văn Toàn.
Ông Hội sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Sơn, Hoàng Văn Hà, Hoàng Văn Nam.
Ông Chí sinh được 4 gái, 3 trai; con trai là Hoàng Văn Quý, Hoàng Văn Túy, Hoàng Văn Thụy.
Ông Cúc sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Đồng.
Ông Tương sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Hoàng Văn Lâm.

Đời 8:
Ông Chương sinh năm 1914 sinh được 1 gái, 3 trai; con trai là Hoàng Văn Việt, Hoàng Văn Tiến, Hoàng Văn Nam.
Ông Sương sinh được 1 gái, 5 trai; Con trai là Hoàng Văn Phòng, Hoàng Văn Thắng, Hoàng Văn Sơn, Hoàng Văn Hà, Hoàng Văn Trí.
Ông Huyền sinh được 4 trai, 4 gái; con trai là Hoàng Văn Nhung, Hoàng Văn Ngọc, Hoàng Văn Minh, Hoàng Văn Châu.
Ông Thuần sinh năm 1922 sinh được 2 gái, 1 trai; trai là hoàng Văn Cư.
Ông Khang sinh được 1 trai, 2 gái; trai là Hoàng Văn Bình.
Ông Hòa sinh được 4 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Thông.
Ông Tư sinh được 4 trai, 6 gái; con trai là Hoàng Văn Thường, Hoàng Văn Cảnh, Hoàng Văn Tửu, Hoàng Văn Cầm.
Ông Chiêm sinh được 4 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Tiềm, Hoàng Văn Niệm.
Ông Hiền sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Long.
Ông Bích sinh được 2 gái.
Ông Yêm sinh được 2 trai là Hoàng Mạnh Cường, Hoàng Anh Dũng.
Ông Ân sinh được 5 trai, 5 gái; Con trai là Hoàng Văn Vân, Hoàng Văn Lợi, Hoàng Văn Sơn, Hoàng Văn Chung, Hoàng Văn Đông.
Ông Thân sinh được 6 trai, 2 gái; Con trai là Hoàng văn Hùng, Hoàng Văn Hào, Hoàng Văn Hải, Hoàng Văn Hóa, Hoàng Văn Quỳnh, Hoàng Văn Kiện.
Ông Hân sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Châu, Hoàng Văn Phong.
Ông Trung sinh được 2 gái, 3 trai; trai là Hoàng Văn Lý, Hoàng Văn Phú, Hoàng Văn Thi.
Ông Thành sinh được 1 gái.
Ông Long sinh được 4 gái.
Ông Toàn sinh được 1 gái.
Ông Sơn sinh được 3 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Hùng, Hoàng Văn Phúc, Hoàng Văn Tâm.
Ông Hà sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Hiệp.
Ông Nam sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Tỵ.
Ông Lưu có 2 bà vợ, vợ đầu sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Nam.
Ông Quý sinh được 4 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Lụt (mất sớm).
Ông Túy sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Hoàng Văn Tá, Hoàng Văn Đức.
Ông Thụy sinh được 6 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Cu (mất), Hoàng Văn Khanh, Hoàng Văn Châu, Hoàng Văn Ngoãn, Hoàng văn Quán (mất), Hoàng Văn Hoan.
Ông Đồng có 2 bà vợ, vợ cả sinh được 4 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Liên, Hoàng Văn Tưởng, Hoàng Văn Cương, Hoàng Văn Hồng.
Ông Lâm sinh được 5 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Tuấn, Hoàng Văn Phi, Hoàng Văn Phúc, Hoàng Văn Hồng, Hoàng Văn Hào.    

Đời 9:
Ông Việt sinh năm 1948 sinh được 7 người con, 1 trai, 6 gái; con trai là Hoàng Văn Đào.
Ông Tiến sinh được 7 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Quyện.
Ông Nam sinh được 3 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Dũng.
Ông Sơn sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Hoàng văn Trường, Hoàng Văn Thông.
Ông Hà sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Đông, Hoàng Văn Thành.
Ông Trí sinh được 4 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Dũng, Hoàng Văn Tài, Hoàng Văn Tú, Hoàng Văn Nhạc.
Ông Nhung sinh được 1 trai, 4 gái; trai là Hoàng Văn Thanh.
Ông Ngọc sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Chắt, Hoàng Văn Duy.
Ông Minh sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Huy.
Ông Châu sinh được 2 gái.
Ông Cư sinh năm 1949 sinh được 4 gái, 1 trai; trai là Hoàng Danh Điệp.
Ông Bình sinh được 1 con trai tên là Hoàng Văn Cường.
Ông Cảnh sinh được 2 trai, 2 gái; con trai là Hoàng văn Thành, Hoàng văn Cường.
Ông Tửu sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Hoang Văn Tuấn Đạt.
Ông Cầm sinh được 2trai là Hoàng Văn Lực, Hoàng văn Thiệu.
Ông Tiềm sinh được 3 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Hiệp, Hoàng Văn Hồng.
Ông Niệm sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Nguyên.
Ông Long sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Hoàng Văn Chính.
Ông Vân sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Quyến.
Ông Lợi sinh được 2 trai, 1 gái; Con trai là Hoàng Văn Cường, Hoàng Văn Nguyên.
Ông Sơn sinh được 2 gái.
Ông Chung sinh được 1 trai, 2 gái; trai là Hoàng Văn Tuấn.
Ông Đông sinh được 2 trai là Hoàng Văn Quân, Hoàng Văn Toàn.
Ông Hùng sinh được 2 trai, 1 gái; Con trai là Hoàng Văn Hiếu, Hoàng Văn Hảo.
Ông Hào sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Hoàng Văn Dũng.
Ông Hải sinh được 2 trai, 1 gái; con trai là Hoàng Văn Huỳnh, Hoàng Văn Huy.
Ông Tá sinh được 3 gái.
Ông Đức sinh được 4 gái, 1 trai; trai là Hoàng Hồng Sơn.
Ông Khanh sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Hoàng Văn Hòa.
Ông Châu sinh được 1 trai, 1 gái; trai là Hoàng Văn Dũng.
Ông Ngoãn sinh được 1 gái.
Ông Liên sinh được 1 gái, 2 trai; con trai là Hoàng Văn Sơn, Hoàng Văn Thủy.
Ông Tưởng sinh được 1 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Linh.
Ông Cương sinh được 2 gái.
Ông Tuấn sinh được 2 gái, 1 trai; trai là Hoàng Văn Linh.
Ông Phúc sinh được 1 trai là Hoàng Văn Dương.
Ông Hồng sinh được 3 gái.

Đời 10:
Ông Điệp sinh được 1 trai là Hoàng Văn Khánh.
Ông Hiệp sinh được 1 trai là Hoàng Văn Gia Bảo.

          Họ Hoàng Văn tại xã Tiên Nông đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho các phong trào cách mạng tại xã Tiên Nông:
          - Tháng Năm năm Ất Dậu (Đêm 4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi hạ dụ Cần Vương, phụ chính Tôn Thất Thuyết (thay mặt vua) cử Nguyễn Xuân Ôn làm An-Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại thần, có nhiệm vụ thống lĩnh nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh giúp vua, cứu nước. Nguyễn Xuân Ôn cùng Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhạ, Đinh Nhật Tân lập chiến khu ở xã Đồng Thành thuộc huyện Yên Thành (Nghệ An). Nơi vùng núi đó, Nguyễn Xuân Ôn chọn một thung lũng làm nơi xây dựng Đại đồn Đồng Thông. Trong số chỉ huy giỏi của Nguyễn Xuân Ôn có ông Lĩnh Ngợi đóng quân vùng tổng Vân Tụ (trong đó xã Tiên Nông có hệ thống đồn luỹ vùng Tây _ Nam của nghĩa quân). Nhân dân xã Tiên Nông đã ra sức cung cấp lương thực thực phẩm cho nghĩa quân, là cái nôi che chở cho nghĩa quân tụ nghĩa, luyện binh. Người ủng hộ cho nghĩa quân của nhân dân xã Tiên Nông nổi bật là cụ  Hoàng Văn Điển (cố Ký - đời thứ 5) đã góp phần không nhỏ cho nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn trong công cuộc chống Pháp lúc bấy giờ. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, nghĩa quân của Lĩnh Ngợi đến nhà Cố Ký (làm Ký huyện); họ tổ chức xay lúa, đâm gạo, làm thịt trâu bò lợn gà; ăn uống rồi họ mang gạo, thịt về căn cứ.  Trong đêm đó, có người báo với quan đồn, quan đồn lập tức đưa lính về bắt Cố Ký. Sáng ra, khi thấy quan đồn tới bất ngờ, biết là có chuyện chẳng lành, Cố Ký bình tĩnh xử lý rắc rối một cách thông minh. Cố Ký chạy ra chào quan đồn bằng tiếng Pháp rằng: Trời ơi, ngài về muộn quá, bọn cướp chạy hết rồi; khi đêm bọn nó về nhà tôi cướp hết thóc  đâm xay, cướp hết trâu bò lợn gà làm thịt đem chạy vào rừng rồi; vừa nói, ông vừa chỉ tay vào đống trấu, chuồng trâu bò, đống lông lợn, lông gà, lông vịt; bọn chúng còn bắt thằng con tôi làm con tin. Tôi đã sai người đi báo với ngài về bắt chúng nó, mà giờ ngài mới tới; thật tội nghiệp cho thằng con tôi, rồi ông khóc như thật. Tưởng Cố Ký nói thật, tên quan đồn từ thái độ hậm hực, chuyển sang thái độ vui vẻ, nó xuống ngựa bắt tay ông nói: Ký  huyện tốt tốt, lúc đầu tôi tưởng ông làm giặc. Cố Ký bắt tay tên quan đồn, mời cả bọn vào nhà ăn uống. Tối hôm sau, người của nghĩa quân về thôn bắt và giết cả nhà người đi đi báo quan đồn, chỉ còn một người con dâu đang mang thai. 
          - Sau khi Đảng cộng sản thành lập, tại xã Tiên Nông đã có ông Hoàng Văn Cúc (đời thứ 4) sớm bắt liên lạc với Đảng. Được sự bồi dưỡng giúp đỡ của Đảng ông Cúc đã hăng hái hoạt động cách mạng, tham gia thành lập các tổ chức Nông hội đỏ, Thanh niên xích sắt, Phụ nữ giải phóng làm nòng cốt  cho các cuộc biểu tình, rải tuyền đơn, cắm cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm lên các vị trí quan trọng (cây cổ thụ, đình làng …). Tuyên truyền vận động quần chúng đi nghe diễn thuyết, đi biểu tình, kéo đến nhà lý trưởng phá kho thóc cứu đói cho nhân dân.
          - Năm 1934, ông Hoàng Văn Cúc lại bắt liên lạc với các lãnh tụ của phong trào cách mạng năm 30 -31 bị bắt bớ tù đày được thả về, nhân dân xã Tiên Nông lại nổi đấu tranh chống hưởng ứng phong trào bình dân Pháp, đấu tranh chống bọn cường hào tham ô nhũng lạm, ức hiếp dân lành, chống sưu cao thuế nặng.
          - Năm 1935, xã Tiên Nông tổ chức bầu lý trưởng, Đảng cộng sản chủ trương đưa người của Đảng ra tranh cử; dưới sự chỉ đạo và sự vận động của ông Hoàng Trần Phô (người xã Đặng Sơn), ông Hoàng Văn Cúc đã được nhân dân xã Tiên Nông bầu làm lý trưởng. Từ năm 1936, lần lượt có các đảng viên của Đảng cải trang thành thầy dạy học, người lái buôn, anh đánh bạc về xã Tiên Nông hoạt động; dưới sự che chở của lý trưởng Hoàng Văn Cúc đã  che mắt bọn phản động, các đồng chí vẫn hoạt động an toàn. Nhà thờ họ Hoàng và nhà lý trưởng Hoàng Văn Cúc đã là địa điểm bắt liên lạc của những người hoạt động cách mạng trong thời kỳ 1936 -1939.
- Đầu năm 1943, thôn Tiên Nông tổ chức thành lập Đội Thanh niên Bảo an (Tự vệ Đỏ) do ông Hoàng Văn Thận làm đội trưởng và nhiều người con của họ Hoàng Văn tham gia như các ông: Phương, Quý, Túy.
-  Đầu năm 1945, thôn Tiên Nông tổ chức lập Hội Thanh niên cứu quốc gồm 30 người do ông Hoàng Văn Thận làm bí thư và họ Hoàng Văn có các ông: Phương, Quý, Túy, Tám.
          - Năm 1945, khi Nhật nổ sung bắn vào thực dân Pháp, các lãnh tụ của Đảng đã về xã Tiên Nông diễn thuyết, kêu gọi chuẩn bị tổng khởi nghĩa; cũng thời kỳ này huyện uỷ Anh Sơn quyết định chọn xã Tiên Nông làm nơi in ấn tài liệu khởi nghĩa; ông Bùi Hữu Thư được cấp trên cử về phối hợp với ông Hoàng Văn Cúc; địa điểm in ấn là nhà thờ họ Hoàng. Lo kinh phí ăn uống từ tháng 2 cho đến tháng 7 cho tổ in ấn do ông Cúc và ông Phương đảm bảo. Tổ canh gác, bảo vệ do ông Hoàng Văn Thận làm tổ trưởng và các ông người họ Hoàng: Phương, Quý, Túy. Cuối tháng 7 tổ ấn loát rút về huyện ủy Anh Sơn an toàn. Cuối tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã Tiên Nông trai gái trẻ già, nô nức phấn khởi kéo đến nhà lý trưởng tước ấn tín. Tháng 12 năm 1945, ông Hoàng Văn Cúc có tên trong ban tổ chức thành lập xã lớn Thanh Sơn.
          - Tháng 3 năm 1946, Xưởng Đội Quyên (chuyên sản xuất, lắp ráp vũ khí đạn dược phục vụ kháng chiến) chuyển từ Quảng Trị về xã Tiên Nông. Nhà thờ họ Hoàng và khu vườn rộng của nhà ông Hoàng Văn Phương kéo dài tới nhà ông Hoàng Văn Quý lại được chọn làm địa điểm đóng quân. Năm 1949, Trung đoàn 57 về tiếp quản và tiếp tục sản xuất vũ khí an toàn.
          Nhà thờ họ Hoàng Văn đang được UBND xã Hồng Sơn và UBND huyện Đô Lương đang đề nghị UBND tỉnh Nghệ An công nhận và cấp bằng di tích lịch sử văn hoá.

Không có nhận xét nào: