Ông Hoàng Văn Cúc là con cháu dòng họ Hoàng gốc Mạc.
Vào khoảng năm 1700, ông Hoàng Văn Chỉnh ở thôn Đông Lũy (nay thuộc xã Diễn
Kim) đem theo mẹ và người cháu trai (của anh) đến thôn Tiên Nông lập nghiệp và
lập thành chi họ Hoàng Văn tại đây.
Họ Hoàng Văn thôn Tiên Nông vẫn phát huy được bản chất
và truyền thống của dòng họ Mạc; đó là truyền thống cách mạng và tinh
thần tự tôn dân tộc, không chịu khuất
phục trước sự thống trị của ngoại bang. Điển hình là cụ Hoàng Văn Điển. Cụ Điển
sinh năm 1801, cụ làm chức Ký huyện huyện Đông Thành, nhưng cụ lại có cảm tình
với các phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược; cụ đã cho một người
con trai tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn (1885-1887), riêng cụ đã
cung cấp lương thực thực phẩm cho nghĩa quân hoạt động.
Ông Hoàng Văn Cúc sinh năm 1910, con cụ Hoàng Văn Soạn
và Dương Thị Tích. Cụ Soạn tướng mạo hôi ngô tuấn tú, thông thạo chữ Hán; kinh
tế gia đình vào loại khá giả trong thôn, nhiều nông dân nghèo đến ở làm công
cho nhà cụ mà có cái ăn, cái mặc và nuôi sống gia đình.
Sinh thời ông Hoàng Văn Cúc được gia đình cho ăn học
đến nơi đến chốn. Ông giao du với bạn bè rồi tìm hiểu về các tổ chức: Tân Việt,
Việt Nam cách mạng thanh niên, Đông Dương cộng sản đảng, Thanh niên xích sắt,
Nông hội đỏ.
Thôn Tiên Nông từ năm 1919 thuộc tổng Yên Lăng và quê
mẹ của ông (bà Tích) ở thôn Cồn Nội (nay thuộc xã Thịnh Sơn), nên ông Cúc tham
gia học tập và tìm hiểu các phong trào cách mạng chủ yếu ở tổng Yên Lăng, ông
kết bạn với các thanh niên ở thôn Cồn Nội; năm 1928-1929 ông tham gia vào các
hoạt động của phong trào thanh niên ở Cồn Nội. Trong nhóm thanh niên của ông
Cúc có bà Thái Thị Nậy (sau này là đảng viên), bà Thái Thị Thiệu (sau này là vợ
của ông).
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, do từ Tiên
Nông xuống Hội Tâm đường xa cách trở; được sự hướng dẫn của tổ chức, ông Cúc
chuyển lên hoạt động cách mạng ở Bạch Ngọc thuộc tổng Đô Lương dưới sự dẫn dắt
của ông Đào Văn Uân và ông Lê Khắc Cơ. Tháng 6 năm 1930, ông Hoàng Văn Cúc và 2
người bạn cùng chí hướng là: Thái Bá Phi (anh rể ông Cúc) và Bùi Văn Du (thôn
Tràng Kiều – bạn ông Cúc) được kết nạp vào Đảng CSĐD. Tổ đảng thôn Tiên
Nông được thành lập do ông Cúc làm Tổ
trưởng. Về vấn đề này, chúng tôi mất rất nhiều công sức tìm hiểu mà không lý
giải được; tại sao thôn Tiên Nông thuộc tổng Yên Lăng mà ông Cúc lại hoạt động
ở tổng Đô Lương ?; tại sao ông Du ở thôn Tràng Kiều thuộc tổng Vân Hội của
huyện Yên Thành lại hoạt động chung ở Tiên Nông ? . Cuối cùng thì điều băn
khoăn đó cũng được giải đáp, chúng tôi đã tìm thấy bản xác nhận của ông Đào Văn
Uân ghi như sau: “Tháng 3 năm 1930, cấp
trên tuyên bố: đồng chí nào ở gần thôn xã nào có điều kiện phát triển phong
trào cộng sản được thì tìm điều kiện mà phát triển cho khắp các thôn xã. Tôi và
Thái Khắc Cơ đã vào thôn Tiên Nông gặp ông Cúc hướng dẫn cách thức tuyên truyền,
vận động để thành lập tổ đảng cộng sản ở thôn Tiên Nông”.
Sau khi thành lập, Tổ Đảng thôn Tiên Nông đã tổ chức
và lãnh đạo phong trào Nông hội đỏ, Thanh niên Xích sắt, Phụ nữ giải phóng; các
tổ chức này là những nhân tố tham gia tích cực trong các cuộc biểu tình, rải
truyền đơn, cắm cờ đỏ sao vàng và cờ búa liềm trên các cây cao ở những nơi
trung tâm. Mục đích các hoạt động này là thực hiện Quyết định của Phủ ủy Anh
Sơn “ đòi giảm sưu, hoãn thuế, ủng hộ cuộc biểu tình của công nhân, nông dân
Vinh – Bến Thủy, Hạnh Lâm”, “trừng trị những tên lý trưởng, chánh tổng gian ác”.
Điển hình là cuộc biểu tình ngày 7/9/1930 của nhân dân toàn phủ Anh Sơn; cuộc
biểu tình bị địch đàn áp khốc liệt. Khi đoàn biểu tình của thôn Tiên Nông và thôn
Vĩnh Giang kéo ra đến Cồn Trăn thì bọn lính đồn Mượu chặn lại, khí thế của đoàn
biểu tình hừng hực kiên quyết tiến về Bạch Ngọc hội quân; bị đoàn biểu tình
phản dối quyết liệt, bọn lính đã bắn vào đoàn biểu tình, anh Lê Văn Trước (thôn
Vĩnh Giang) và chị Vương Thị Hiên (thôn Tiên Nông) bị thương nặng; Chị Hiên
được anh em đưa về nhà điều trị, do vết thương quá nặng, chị đã hy sinh. Cuộc
biểu tình bị đàn áp khốc liệt và bị thất bại, không đạt được mục đích đề ra.
Bị địch bắt bớ, tù đày và truy sát gắt gao. “Tình hình
ngày càng khó khăn, lực lượng hao mòn, kinh tế cạn kiệt nên phong trào chỉ âm ỉ
một thời gian rồi bị dập tắt” [1].
Sau Đại hội ngày 19/3/1937, Phủ ủy Anh Sơn phân công
cán bộ đi xuống cơ sở để tuyên truyền, vận động, khôi phục và tổ chức các chi
bộ. Ông Hoàng Trần Phô được giao trực tiếp bắt liên lạc với ông Hoàng Văn Cúc,
Đào Văn Uân, Thái Khắc Cơ để khôi phục lại tổ đảng thôn Tiên Nông; đồng thời tổ
chức vận động ông Hoàng Văn Cúc ứng cử làm lý trưởng thôn. Ông Hoàng Văn Cúc đã
tuyên truyền, vận động thêm được 5 người để thành lập tổ đảng mới ở thôn Tiên
Nông. Trong ngày bầu cử lý trưởng thôn, ông Hoàng Văn Cúc đã trúng cử. Thế là
ông Cúc phải nhận nhiệm vụ “hai mang” vừa là đảng viên cộng sản vừa làm tay sai
cho thực dân Pháp.
Tháng 6/1945, Phủ ủy Anh Sơn giao cho ông Hoàng Văn
Cúc tổ chức một địa điểm bí mật để in ấn tài liệu chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ông
Cúc đã bàn bạc với tộc trưởng họ Hoàng Văn và ông tộc trưởng đã ủng hộ, lấy nhà
thờ họ làm địa điểm in ấn. Sau 3 tháng làm việc, tổ ấn loát đã hoàn thành công
việc và rút về Phủ ủy an toàn. Toàn bộ kinh phí ăn nghỉ, bảo vệ do ông Hoàng
Văn Cúc và ông tộc trưởng đảm nhận [2].
Sau thắng lợi của tổng khởi nghĩa, ngày 30/8/1945 Ủy
ban hành chính lâm thời và nhân dân thôn Tiên Nông kéo đến nhà lý trưởng Hoàng
Văn Cúc để thu ấn tín [3].
Tháng 12/1945, ông Cúc được giao nhiệm vụ làm Ban tổ
chức thành lập xã lớn Thanh Sơn. Theo sự phân công, ông không làm việc ở làng
xã nữa. Xong việc thành lập xã lớn Thanh Sơn, huyện ủy Anh Sơn điều động ông
Cúc lên huyện công tác.
Năm 1948, ông Cúc được giao nhiệm vụ làm Phó Chủ tịch
Hội Liên Việt huyện Anh Sơn, phụ trách công tác tôn giáo.
Năm 1951, sau khi Hội Liên Việt sáp nhập với Mặt trận
Việt Minh; ông Hoàng Văn Cúc được tổ chức phân công hoạt động trong đảng dân
chủ. Thế là ông Cúc lại nhận nhiệm vụ hoạt động “hai mang” vừa là đảng viên
đảng cộng sản, vừa là đảng viên đảng dân chủ.
Trong đợt giảm tô, giảm tức năm 1953, ông nghỉ sinh
hoạt. Từ đó ông về với gia đình, ông sống như một người nông dân thực thụ: hàng
ngày ông vẫn tham gia lao động sản xuất cùng gia đình.
Tháng 9 năm 1955, ông tham gia đi dân công đắp đê 42 ở
huyện Nam Đàn để bồi đắp lại các đoạn đê bị vỡ sau trận lụt lịch sử 1954. Tháng
11 năm ấy, ông Cúc bị Đội Cải Cách ruộng đất của xã Hồng Sơn triệu tập về địa
phương và ông bắt đầu bị giam cầm.
Đầu năm 1956, ông Cúc bị quy thành phần địa chủ việt
gian và bị Đội Cải cách Ruộng đất quyết định xử bắn. Ngày 21 tháng 3 năm 1956
(10/2 âl), trước lúc bị bắn ông Cúc hô vang khẩu hiệu: “Đảng Lao động Việt Nam
muôn năm”, Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Nông dân trên hết”.
Ông Hoàng Văn Cúc mất đi mang theo bao điều bí mật về
cuộc đời hoạt động cách mạng của ông. Vì hoạt động của ông hoàn toàn trong điều
kiện bí mật tuyệt đối, chỉ có cấp trên giao nhiệm vụ cho ông biết việc ông làm
mà thôi; hoạt động chính trị của ông lại ở những công việc nhạy cảm, rất dễ bị
nghi ngờ [4].
Trong quá trình tìm hiểu để viết lịch sử quê hương, chúng tôi đã gặp gỡ nhiều
cụ già cùng trang lứa với ông, không ai biết về hoạt động của ông cả; người ta
chỉ nói ông bị oan sai, nhưng oan sai thế nào thì không ai rõ; thậm chí không
ai biết đích xác ông là đảng viên. Hội thảo lần cuối dự thảo lịch sử của địa
phương cũng chỉ biết căn cứ vào lời hô khẩu hiệu trước khi ông bị bắn và một số
ý kiến: “ông Cúc là người giới thiệu ông Nguyễn Cảnh Nhượng, ông Hoàng Văn Quý
vào Đảng” (nhưng không có tư liệu chứng minh) để kết luận ông là đảng viên.
May mắn thay, sau khi Ban Tuyên giáo huyện ủy đã
duyệt; chúng tôi bất ngờ tìm ra bản xác nhận của các ông: Đào Văn Uân (đảng
viên năm 1930), Nguyễn Trung Lục (Chủ tịch UBHC lâm thời huyện Anh Sơn khi cướp
chính quyền năm 1945), Hoàng Trần Phô (Lão thành CM), Bùi Hữu Thư (phụ trách tổ
ấn loát tại Tiên Nông). Các bản xác nhận này đều ghi rõ các hoạt động như đã
nêu trên đây ở thôn Tiên Nông, trong đó vai trò của ông Cúc là người đứng đầu
lãnh đạo. Chúng tôi đã đề nghị Thường vụ Đảng ủy báo cáo với Ban Tuyên giáo để
bổ sung thêm những tư liệu mới được tìm thấy. Và những sự kiện liên quan đến
hoạt động của ông Hoàng Văn Cúc đã chính thức được ghi trong sách “Lịch sử Đảng
bộ và Nhân Dân xã Hồng Sơn”.
[1]
. Tư liệu: Sách Lịch sử Đảng bộ huyện Đô
Lương (1930-1963), trang 63.
[2] .
Xác nhận của ông Nguyễn Trung Lục: “Trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do phát
xít Nhật bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay gây ra, thì việc làm của ông Cúc, ông
Phương và gia đình rất có ý nghĩa”.
[3] . Ông Cúc là đảng
viên, là người lãnh đạo nên ông đã chuẩn bị chu đáo cuộc thu giữ ấn tín diễn ra
đúng như chỉ đạo của chính quyền cách mạng. Nhà cửa, sân vườn dọn dẹp sạch sẽ,
phong quang; trải chiếu, đặt yên thư giữa sân, khay phủ khăn đựng ấn tín để
trên bàn, chuẩn bị giao cho đại diện chính quyền cách mạng. Việc làm này đã
khơi dậy lòng tự hào của quần chúng nhân dân sau khi giành được chính quyền.
[4]
. Sách Lịch sử Đảng bộ huyện Đô Lương
1930-1963, trang 96 có đoạn: “Thế nhưng trong Đảng, hệ thống tổ chức chưa được
khôi phục, giữa các đồng chí cũ hoạt động trong Mặt trận Việt Minh và chính
quyền các cấp còn có những biểu hiện nghi ngờ, không tin phục nhau…”. “Cuối
tháng 10/1945, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Xuân Linh về Anh Sơn triệu tập
một số đồng chí cựu chính trị phạm để giải thích chủ trương, chính sách của
Đảng, đường lối của Việt Minh, phân tích rõ việc mất đoàn kết trong nội bộ Đảng
là rất nguy hiểm cho phong trào”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét